Nuôi con đặc sản vẫn khó trụ
Những năm 2009 – 2010, phong trào nuôi con đặc sản (nhím, trĩ, dúi, lợn rừng…) phát triển mạnh ở nhiều địa phương. Thời kỳ đỉnh cao, mỗi đôi nhím giống có giá tới 25 triệu đồng. Khi đó, nhiều người nghĩ họ sẽ làm giàu từ những con đặc sản này. Nhưng chỉ vài năm sau, kết quả mà họ nhận được là… thua lỗ. Nhiều hộ chỉ nuôi 5 – 6 đôi nhím, nhưng khoản lỗ lên đến cả trăm triệu đồng. Và khi lỗ rồi, họ mới nhận ra rằng, lỗ là phải. Làm sao tránh khỏi lỗ khi ai ai cũng chỉ nuôi nhím bán giống, mà không phải bán thịt thương phẩm. Tất nhiên vẫn có người lãi, thậm chí là lãi cao. Đó là những người nuôi trước, họ chỉ nuôi để bán giống và những hộ nuôi sau khi giống đã bão hòa không bán được cho ai, bán thịt thì rẻ dẫn đến lỗ. Và vài năm sau nhiều người lại tiếp tục mắc phải câu chuyện tương tự với con dế, dúi…
Trang trại nuôi gà của ông Đào Xuân Hải, xã Kim Long (Tam Dương, Vĩnh Phúc)
Về vấn đề này TS Võ Văn Sự - Chủ tịch Hiệp hội Bảo tồn Động vật quý hiếm Việt Nam cho rằng, định hướng phát triển con đặc sản là một định hướng đúng, song do người dân chưa chọn đúng con đặc sản tiềm năng, chưa nghiên cứu thị trường, phát triển theo phong trào dẫn đến thua lỗ. “Chứ về lâu dài con đặc sản sẽ có chỗ đứng, bởi người dân ngày càng hướng đến ăn ngon, sạch, an toàn” – TS Sự cho hay.
Con đặc sản tiềm năng là thế, song trên thực tế khi chăn nuôi người dân cũng đang gặp rất nhiều khó khăn, do tác động từ nhiều yếu tố khác nhau. Cách đây 3 năm, anh Hồ Việt Hoa ở thôn Đỉnh, xã Liên Sơn (Tân Yên, Bắc Giang) là một trong những người đi đầu trong việc nuôi con đặc sản. Anh Hoa chọn nhím và chim trĩ. Lúc đầu anh đầu tư 8 đôi nhím và 15 đôi chim trĩ. Có thời điểm trang trại của anh có tới 30 đôi nhím và hàng chục đôi chim trĩ. Nhưng chỉ sau hơn một năm anh phải bán xới và chịu lỗ hơn 100 triệu đồng vì nhím tụt giá thê thẩm từ 15 triệu đồng/đôi, còn 2 – 3 triệu đồng/đôi. Còn trĩ cũng chỉ bác lác đác được vài đôi giống, chứ trĩ thịt rất ít người mua, bởi giá quá cao (350.000 đồng/kg).
Khác với anh Hoa, anh Nguyễn Thành Trung, thôn Lý, xã Ngọc Lý (Tân Yên, Bắc Giang) lại chọn cho mình con lợn rừng. Sở dĩ anh Trung chọn lợn rừng, bởi đây là giống lợn khỏe, ít bệnh tật, có chất lượng thịt tốt. Những tưởng công việc chăn nuôi, tiêu thụ của mình sẽ thuận lợi.
“Nhưng mọi việc không đơn giản như vậy. Năm 2013, rộ lên vấn đề chất cấm, chất tạo nạc. Dù tôi nuôi lợn rừng bán hoang dã, thức ăn chính là rau, cỏ và cám gạo, ngô, nhưng vẫn bị vạ lây. Khổ thịt lợn rừng bao giờ cũng rất nạc và có màu đỏ thẫm, nên nhiều người bán tín, bán nghi lợn rừng cho ăn chất tạo nạo, nên một thời gian dài giá lợn tụt giảm thê thảm, lượng tiêu thụ chậm” – anh Trung chia sẻ.
Khốn đốn vì… chất cấm, thực phẩm “bẩn”
Những ngày gần đây, phong trào chống, tẩy chay thực phẩm “bẩn”, chất cấm trong chăn nuôi đang lan tỏa rầm rộ trên các phương tiện thông tin đại chúng. Mọi người đều biết, chất cấm, thực phẩm “bẩn” sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến người tiêu dùng và xa hơn là nòi giống. Song ở một khía cạnh khác, thông tin về chất cấm, thực phẩn bẩn đã và đang ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống, kinh tế của những người chăn nuôi chân chính, chăn nuôi sạch.
Trang trại nuôi lợn sạch của anh Nguyễn Thành Trung, thôn Lý, xã Ngọc Lý (Tân Yên, Bắc Giang)
Không chỉ nuôi con đặc sản là gà Móng (gà Sách đỏ), trang trại của ông Nguyễn Văn Thắm ở xã Tiền Phong (Duy Tiên, Hà Nam) còn được nuôi theo mô hình sạch. Tức sạch từ con giống, đến thức ăn, môi trường và dịch bệnh. Ông Thắm cho biết, năm 2010 con gà Móng đã được đưa vào danh mục “Sách đỏ” và anh là một trong những người đầu tiên gây dựng và bảo tồn giống gà quý hiếm này. Và hiện nay gà Móng đã thoát ra khỏi tình trạng nguy cấp, nên được chăn nuôi, mua bán làm thương phẩm.
Theo ông Thắm, trung bình gà Móng có giá từ 150.000 – 180.000 đồng/kg, thời điểm lễ tết lên đến 230.000 đồng/kg. Gà giống khoảng 18.000 - 25.000 đồng/con. Tuy nhiên, hồi cuối năm 2014 và gần đây khi thông tin về chất cấm, chất vàng ô được một số chủ trang trại sử dụng để giúp gà có mẫu mã đẹp hơn, đã ảnh hưởng không nhỏ đến trang trại của anh.
Ông chia sẻ: “Người tiêu dùng nghi ngờ sự thành thật của người chăn nuôi, cả chăn nuôi công nghiệp, chăn nuôi sạch và đương nhiên tôi cũng bị chịu trận lây. Họ hoài nghi rằng vì lợi nhuận, các trang trại sẽ sử dụng chất cấm, nhưng họ đâu biết rằng, nếu tôi sử dụng chất cấm, gà của tôi sẽ không còn là đặc sản nữa. Nhưng nói ai nghe, ai tin. Họ sợ chất cấm, bằng cách không ăn thịt gà nữa, dẫn đến giá gà tụt dốc. Có lúc tôi phải bán gà 80.000 – 90.000 đồng/kg, chưa bằng một nửa lúc giá cao”.
Ngoài thiệt hại trực tiếp do chất cấm, thực phẩm “bẩn” gây nên như giá cả giảm, lượng cung giảm. Người chăn nuôi như ông Thắm còn bị thiệt hại về thương hiệu, tâm lý, danh dự của mình. “Người ta vẫn hay nói, ai làm người ấy chịu, nhưng vấn đề chất cấm, thực phẩm “bẩn” chỉ một số người làm nhưng cả xã hội phải chịu” – ông Thắm bức xúc.
Tương tự, ông Đào Xuân Hải, xã Kim Long (Tam Dương, Vĩnh Phúc) người đang nuôi tới gần 100.000 con gà đẻ trứng giống Ai Cập và hàng nghìn con gà thịt, theo mô hình kép kín cũng đánh phải gánh chịu những thiệt hại nặng nề do thông tin về chất cấm và thực phẩm bẩn gây ra. Ông Hải cho biết, ông chuyên nuôi gà đẻ trứng rồi ấp bán giống cho bà người dân.
Theo ông Hải, để ngăn chặn việc người dân sử dụng chất cấm, nhà nước cần có một chế tài đủ mạnh để răn đe những người cố tình gây hại cho người khác, chỉ vì lợi ích cá nhân. “Cần cấm việc sử dụng chất cấm như đối với việc sử dụng, vận chuyển, buôn bán ma túy thì việc khống chế, ngăn chặt chất chấm mới có hiệu quả” – ông Hải nhận định.“Về quy trình, gà của tôi được nuôi gần như 100% sạch, bởi vì giống tôi tự sản xuất, thức ăn tự phối trộn và tự ấp, chứ không liên quan gì đến chất cấm. Nhưng vì chất cấm mà tôi bị thiệt hại rất nặng nề. Nếu trước đây mỗi tháng tôi xuất hàng chục vạn gà giống, thì nay chỉ xuất được vài vạn. Nguyên nhân do sợ chất cấm, nhiều người “tẩy chay” thịt gà, dẫn đến giá gà thịt rẻ. Không có đầu ra, nhiều họ bỏ chuồng, hoặc nuôi cầm chừng, do đó hậu quả mà chất cấm, thực phẩm bẩn gây ra là rất nặng nề” – ông Hải phân tích.