Liên kết vẫn còn lỏng lẻo
Theo thống kê của Cục Trồng trọt, ĐBSCL có diện tích đất trồng lúa khoảng 1,9 triệu ha, với diện tích gieo trồng hàng năm khoảng 4,2 triệu ha, năng suất bình quân ước đạt 57 tạ/ha, sản lượng lúa ước đạt 24 triệu tấn, trong đó khoảng 50% cho tiêu dùng nội địa và 50% phục vụ cho xuất khẩu. Mô hình liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp với hợp tác xã (HTX) và người nông dân (ND) đang phát huy được hiệu quả tích cực. Tuy nhiên, việc xây dựng mô hình liên kết sản xuất, tiêu thụ lúa tại các tỉnh ĐBSCL vẫn còn nhiều hạn chế, chưa ổn định.
Cũng theo tính toán của Cục Trồng trọt, trong năm 2018 cả nước có 6.800 mô hình với khoảng 1 triệu ha diện tích liên kết. Nổi bật là mô hình “Cánh đồng lớn” trên cây lúa diện tích hơn 516.000ha, với 619.000 hộ tham gia. Riêng vùng ĐBSCL, “cánh đồng lớn” liên kết sản xuất lúa có khoảng 380.000ha, chiếm 9,2% diện tích gieo trồng lúa của vùng. Theo tính toán, ở ĐBSCL, mỗi ha lúa tham gia “cánh đồng lớn” có thể giảm chi phí sản xuất từ 10-15%, sản lượng tăng từ 20-25%, thu lãi thêm 2,2-7,5 triệu đồng. Tuy nhiên, hiện nay việc hợp tác, liên kết sản xuất lúa nói chung và “cánh đồng lớn” nói riêng ở nhiều nơi vẫn còn mang tính hình thức nên chưa thu hút nông dân tự nguyện tham gia; đầu ra hạt lúa chưa thật sự ổn định.
Ông Trần Văn Khởi- Quyền Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, cho biết: Tỷ lệ lúa được tiêu thụ qua hợp đồng liên kết còn rất thấp, hầu hết nông dân vẫn phải bán lúa qua thương lái; nông dân và doanh nghiệp chưa tìm được tiếng nói chung để cùng chia sẻ lợi ích cũng như rủi ro trong sản xuất, kinh doanh. Tình trạng bẻ kèo, tranh chấp trong mua bán giữa người sản xuất và các đầu mối tiêu thụ chưa dứt. Nhiều nơi người dân không tuân thủ quy trình kỹ thuật sản xuất của doanh nghiệp yêu cầu. “Chính gì vậy, Diễn đàn sẽ xác định nguyên nhân chủ quan và khách quan, đưa ra các giải pháp đồng bộ nhằm góp phần tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy liên kết sản xuất lúa theo chuỗi giá trị, tạo thành các vùng sản xuất lúa hàng hóa lớn, nâng cao thu nhập cho nông dân và hướng đến một nền nông nghiệp bền vững”- ông Khởi nhấn mạnh.
Cần nhân rộng “cánh đồng lớn”
Tại Diễn đàn, nhiều ý kiến cho rằng, để việc hợp tác, liên kết sản xuất lúa thêm hiệu quả và bền vững, thời gian tới, các địa phương cần tiếp tục rà soát điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch chuyển đổi cơ cấu giống lúa sao cho phù hợp với lợi thế, cầu thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Đồng thời, tiếp tục phát triển các vùng sản xuất lúa hàng hóa tập trung, quy mô lớn; khuyến khích sản xuất lúa sạch, hữu cơ; gắn với chế biến tiêu thụ và xây dựng thương hiệu lúa gạo nhằm nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững…
Theo TS. Đỗ Minh Nhựt- Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Kiên Giang: Xây dựng “cánh đồng lớn” nhằm chuyển nhanh từ sản xuất nông nghiệp nhỏ, manh mún sang sản xuất sản xuất hang hóa tập trung, quy mô lớn, hiệu quả cao gắn với quy hoạch xây dựng nông thôn mới, chỉnh trang đồng ruộng, quy hoạch giao thông nội đồng, quy hoạch vùng sản xuất nông sản hàng hóa. Hình thành nhóm hộ sản xuất cùng áp dụng một cách đồng bộ các tiến bộ kỹ thuật từ giống, canh tác, cơ giới hóa, quản lý đồng ruộng, cây trồng và dịch bệnh tạo một chuỗi sản xuất hợp lý, tiết kiệm chi phí, bảo vệ môi trường, tạo ra sản phẩm an toàn với số lượng lớn, chất lượng cao, đồng nhất và có giá trị cao. Bên cạnh, phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, là tiền đề cho một nền nông nghiệp phát triển bền vững”.
Theo TS Nhựt, giải pháp mà ngành nông nghiệp tỉnh Kiên Giang đưa ra để thực hiện việc xây dựng “cánh đồng lớn” là: Tuyên truyền vận động nông dân hình thành các liên kết sản xuất và tiêu thụ; củng cố, phát triển các hợp tác xã, tổ hợp tác; xây dựng các vùng điểm về liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ giữa nông dân với doanh nghiệp.
Thống nhất quan điểm trên, ông Nguyễn Tấn Nhơn- Phó Giám đốc Sở NN&PTNT TP. Cần Thơ, cho biết: “Cần tập trung huy động nguồn lực kiên trì tổ chức lại sản xuất theo hướng hợp tác hóa, xây dựng lại vùng sản xuất, vùng nguyên liệu gắn với doanh nghiệp và thị trường, trong đó: nhà nước cần có chính sách hỗ trợ nguồn vốn đầu tư cho phát triển sản xuất có hiệu quả, phát triển công nghệ bảo quản chế biến sau thu hoạch, chế biến sâu. Tạo điều kiện khuyến khích doanh nghiệp liên kết vùng sản xuất theo hướng an toàn ổn định, bền vững.
Cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ ngành trung ương và địa phương tạo vị thế cạnh tranh ổn định cho nông sản trên thị trường nội địa và xuất khẩu. Đảm bảo đầu ra cho nông dân để nông dân yên tâm sản xuất, từ đó nâng cao được hiệu quả sản xuất, đảm bảo chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP,... Có chính sách khuyến khích doanh nghiệp có đủ năng lực tham gia vào mô hình liên kết sản xuất - tiêu thụ thông qua hợp đồng. Chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng vùng nguyên liệu tập trung theo quy hoạch, như giao thông nông thôn, giao thông nội đồng, thủy lợi, điện, kho chứa sản phẩm nông thủy sản, bến bãi,… phục vụ cho nhu cầu sản xuất, tiêu thụ sản phẩm“.
Ông Võ Quốc Trung- Trung tâm Khuyến nông, Ban Quản lý Dự án VnSAT tỉnh Sóc Trăng, kiến nghị: “Để sản xuất lúa gạo đạt được mục tiêu bền vững rất cần có sự gắn kết chặt chẽ giữa các nhân tố, các khâu trong chuỗi giá trị lúa gạo. Trong đó phải kể đến vấn đề quan trọng nhất hiện nay là làm thế nào thúc đẩy xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa sản xuất (nông dân/tổ chức nông dân) với tiêu thụ lúa nguyên liệu (thương lái, doanh nghiệp chế biến phân phối gạo). Do vậy, rất cần có sự tham gia tích cực của các thành phần trong chuỗi giá trị lúa gạo với sự hỗ trợ của nhà nước thông qua các chính sách khuyến khích phát triển và sớm ban hành các chương trình, kế hoạch hành động cụ thể”.