Sản xuất manh mún khiến lúa gạo Việt kém sức cạnh tranh, nông dân thu nhập thấp. Ảnh: Huỳnh Xây
Cánh đồng mẫu lớn chỉ chiếm 5%
Theo ngành nông nghiệp các địa phương, quy mô sản xuất lúa hiện nay vẫn còn quá manh mún. Số diện tích cánh đồng lớn – được xem là mô hình có khả năng vực dậy ngành lúa gạo của ĐBSCL, tạo điều kiện thuận lợi trong liên kết 4 nhà. Tuy nhiên, đến nay mô hình này chỉ chiếm dưới 5% diện tích canh tác lúa toàn vùng ĐBSCL. Do diện cánh đồng lớn ít, việc áp dụng cơ giới hóa cũng gặp rất nhiều khó khăn, làm tăng thêm chi phí sản xuất và tăng tỷ lệ hao hụt trong thu hoạch.
Sản xuất manh mún khiến năng suất lao động thấp giảm ưu thế của lúa gạo Việt. Ảnh Huỳnh Xây
Sản xuất manh mún khiến chi phí sản xuất lúa của người nông dân ở ĐBSCL ngày càng cao. Đây chính là nguyên nhân dẫn tới thu nhập của người dân giảm ngoài tác động của giá lúa. Theo ông Nguyễn Văn Hoàng – người dân có nhiều năm kinh nghiệm trồng lúa ở xã Phong Thạnh, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, mỗi ha lúa hiện nay phải mất trên 20 triệu đồng tiền đầu tư cho mỗi vụ, tăng nhiều so với những năm trước đây. Trong đó, tăng nhiều nhất là tiền phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và tiền mua dầu bơm nước lên ruộng.
Ông Nguyễn Văn Hoàng
“Tiền thuốc, tiền phân bón cứ tăng liên tục, hầu như vụ lúa nào cũng tăng. Tiền mua dầu không tăng nhưng do thời tiết thay đổi, nền đất ruộng thường xuyên bị khô nên phải mua để bơm nước liên tục. Trong vụ Đông xuân vừa qua, hơn 1ha lúa của tôi phải tốn trên 20 triệu đồng tiền vốn. Còn các vụ lúa khác như Hè thu, Thu đông thì chi phí chắc chắn sẽ tăng hơn”, ông Hoàng nói.
Với thu nhập như trên, nhiều nông dân đang ở tuổi lao động tại ĐBSCL đã bỏ ruộng để vào làm ở các khu công nghiệp (thu nhập ít nhất là 1,5 triệu đồng/người/tháng) hoặc di dân về thành thị lao động kiếm sống ngày càng nhiều.
Nhiều doanh nghiệp kinh doanh lúa gạo cũng cho rằng: Do nhận thức làm ăn tập thể, làm theo hợp đồng còn hạn chế nên người dân trong cánh đồng lớn thường bán lúa cho hàng xáo thay vì bán cho công ty bởi giá bên ngoài cao hơn. Thế nhưng, thực tế là những hàng xáo chỉ mua, lựa những loại lúa có chất lượng cao, bỏ lại những ruộng không tốt và gây khó khăn cho doanh nghiệp tham gia liên kết trong cánh đồng này.
Bên cạnh đó, hệ thống kênh, rạch một số địa phương bị bồi lắng, chưa được nạo vét kịp thời làm cho việc vận chuyển lúa theo hợp đồng của các công ty bị ảnh hưởng.
Ngoài những hạn chế nêu trên, thông tin dự báo thị trường lúa gạo các tỉnh, thành vùng ĐBSCL hiện còn yếu và thiếu. Đến nay, nhiều địa phương vẫn chưa có chuỗi cung ứng lúa gạo hoàn thiện từ sản xuất đến chế biến theo đơn hàng. Nông dân vẫn chưa quen với cách sản xuất liên kết thị trường, trong khi liên kết giữa nông dân với nông dân, giữa nông dân với doanh nghiệp còn yếu kém, thiếu bền vững và ít về quy mô.
Nghịch lý sản lượng tăng thu nhập giảm
Theo báo cáo của Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Quốc Doanh tại Hội nghị “Giải pháp phát triển bền vững hàng lúa gạo ĐBSCL” vừa tổ chức tại tỉnh An Giang, bên cạnh những thành quả đạt được, ngành sản xuất lúa gạo vẫn còn đang gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển bền vững của ngành trong thời gian tới. Từ năm 1995 đến năm 2015, diện tích gieo trồng lúa tại ĐBSCL đã tăng từ 3,2 triệu ha lên 4,3 triệu ha, sản lượng lúa cũng tăng từ 12,8 triệu tấn lên 25,7 triệu tấn nhưng thu nhập của nông dân trồng lúa hiện lại thấp hơn 2,7 lần so với Thái Lan và 1,5 lần so với Indonesia và Philippines.
Tổn thất sau thu hoạch lớn cũng là rào cản của lúa gạo Việt. Ảnh minh họa
TS.Lê Văn Bảnh
Thứ trưởng Doanh cho rằng, so với nhiều nước xuất khẩu lúa gạo có sản lượng lớn thì chuỗi giá trị ngành lúa gạo của Việt Nam có tỷ lệ thất thoát lên đến 13,7%, cao gấp đôi so với Thái Lan và Ấn Độ. Được biết, nguyên nhân là do người dân để lúa chín lâu ngày mới thu hoạch nên bị rơi rụng nhiều.
Trong khi đó khả năng dự trữ, bảo quản lúa tại nhà của nông dân còn rất yếu kém, hệ thống kho chứa rất hạn chế, xuống cấp. Hơn nữa, trong quá trình phơi sấy, vận chuyển có tổn thất đáng kể. Ngoài ra, chất lượng gạo xuất khẩu cũng còn thấp, tỷ lệ gạo trên 15% tấm còn chiếm tới 36%. Vì những lý do trên mà khả năng cạnh tranh thương mại và hội nhập quốc tế của sản phẩm gạo Việt Nam chưa cao, thị trường tiêu thụ thiếu tính ổn định.
GS-TS.Võ Tòng Xuân - Hiệu trưởng Trường Đại học Nam Cần Thơ - chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực nông nghiệp của ĐBSCL cho biết: Tăng sản lượng lúa rất dễ, tăng thu nhập người dân mới khó. “Không chỉ chi phí sản xuất cao mà khi thu hoạch người dân còn gặp cảnh mất giá nên không có lời nhiều, thậm chí còn thua lỗ. Đại đa số người dân trồng lúa là không có tiền tích lũy. Bằng chứng là khi thu hoạch lúa xong, người dân mới cầm tiền đi trả cho các đại lý thuốc bảo vệ thực vật vì đã mua thiếu trước đó. Sau đó, lại tiếp tục mua thiếu để sản xuất tiếp vụ sau”, GS-TS.Xuân nói.
TS.Lê Văn Bảnh – Cục trưởng Cục Chế biến, Thương mại nông lâm thủy sản và Nghề muối nhận định: Việc sản xuất lúa đến nay vẫn còn nhiều bất cập. ĐBSCL là vùng sản xuất lúa gạo chính, nhưng người trồng lúa lại là người nghèo nhất và gặp nhiều khó khăn nhất. Cụ thể là bình quân diện tích sản xuất nông hộ ngày càng nhỏ đi (khoảng 0,6ha/hộ) trong khi chi phí đầu tư ngày càng cao do giá vật tư nông nghiệp, giá lúa giống không ngừng tăng.