Chái bếp của má là mái ấm của cả nhà. Chái bếp của má giờ là ký ức trong con - ký ức đẹp đẽ mà hễ nhớ tới là nôn nao, muốn tìm về. Ở đó, có cái tủ bếp mở cửa là có đồ ăn, có bếp cà ràng sáng chiều đỏ lửa, có bộ ván ngựa nhỏ trên có giăng chiếc võng đươn bằng dây bình bát. Má lụi hụi nấu cơm, kho cá, chẳng ngơi tay mà còn lắc võng đưa thằng cháu nội: “Ầu ơ… Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ…”.
Mấy dòng này là tôi kể về chái bếp của ngày xưa, của hơn hai mươi năm về trước. Thời gian trôi nhanh quá, cuốn phăng hết những gì có tên gọi “Ngày xưa”, vậy nhưng có những ký ức chẳng thể nhạt nhòa, càng lâu càng dày dặn. Ký ức đó dung dưỡng tâm hồn người ta những điều thiêng liêng lắm. Ai đó gọi tên, ấy là nguồn cội!
Hồi đó, tôi chừng 9, 10 tuổi, hay chăn trâu, chạy nhảy ngoài đồng, bờ ruộng nhiều hơn trong nhà. Bắn xong mấy ván đạn keo, thua sạch, mặt xụi lơ, vội đứng lên lấy tay phủi phủi, rồi thì cứ nhắm thẳng chái bếp mà về: “Má ơi, cơm chín chưa, má? Con đói bụng quá hà!”. Tôi cầm tay má đang nêm nếm nồi canh rau đắng đất nấu với cá trê vàng, lay lay hỏi giục. Má sẵn cầm cây vá nêm canh, vá vá trước mặt tôi mà mắng giọng trìu mến: “Tía mày, chín rồi nè ông Thần, mau rửa tay chân cho sạch rồi vô phụ má dọn cơm”.
Chái bếp của nhà tôi, và hẳn nhiên cũng là đặc điểm chung của những ngôi nhà quê ở Nam bộ, là “căn nhà thêm” của căn nhà chính. Nơi đó để dành nấu ăn cho khỏi ám khói lên “nhà trên” vì hồi xưa toàn nấu bằng bếp củi. Chái bếp của má tôi lợp bằng lá dừa nước, cột tràm khẳng khiu, xạm đen vì khói củi. Cứ hễ gà vừa gáy sáng, má đã lui cui mồi ngọn đèn hột vịt, lấy nắm lá dừa nhóm bếp lửa đỏ rực. Má vo gạo nấu cơm, chưng mấy con mắm đồng để đem theo ra ruộng. Thời đó, má đi cấy lúa mùa, thường là “buổi đứng”, nghĩa là cấy từ lúc trời sáng vừa tỏ mặt người cho tới 2-3 giờ chiều, không nghỉ trưa. Vậy nên má phải thức sớm, nấu cơm đem theo. Chẳng đồ ăn ê hề gì, má bới cơm vào lon gi-gô (Guigoz), trên có chén mắm chưng, đậy kín. Lon gi-gô mà đựng cơm thì chẳng gì bằng, kín chẳng sợ nắng mưa mà lại giữ ấm tốt. Bấy nhiêu đồ ăn nhưng trưa lại phong phú hơn vì tía má hay nhổ ít rau mác, hẹ nước, bông súng ăn kèm… Nhớ hồi chưa đi học, tía má hay dẫn tôi theo, chạy lấp xấp trên bờ ruộng té lên té xuống, tới bữa cơm thì má biểu lại ăn, dọn dưới gốc mù u ngay mé kinh. Đó cũng là chỗ tôi hay nằm gác chân mà ngủ ngon lành.
Mùa hạn, má ra vạt tràm sau nhà, tỉa tót nhánh tràm và cây tràm đẹt chở về chặt củi. Chái bếp của má lúc nào cũng có dãy củi chất đẹp lắm, gọi là “cự củi”. Mỗi cây củi có thể chặt dài ngắn khác nhau nhưng nghệ thuật là khi sắp vào cự, má vỗ cho đều tăm tắp nên khi nhìn vào, cự sẽ bằng phẳng như một bức tường. Chị Ba thì róc lá dừa, bó thành bó lớn, chừng chục bó để dành xài cả năm. Để bó được bó lá dừa đẹp cũng là cả một nghệ thuật, làm sao để lá dừa ken cứng, không sút sổ và đầu cũng phải “bằng thán” như cự củi thì mới đạt yêu cầu. Má tôi kỹ lắm nên dạy chị Ba làm chừng nào được mới thôi. Chị Ba nhờ anh Hai gác mấy cây tràm cứng trên nóc chái, rồi gác bó lá dừa lên. Số củi và lá dừa đó, nhà tôi chụm được qua mùa mưa, hiếm củi.
Cây chổi bếp và cái bợ là hai thứ má tôi tự làm và giữ rất kỹ. Cây chổi bếp má tự chuốt lá dừa, rồi bó bằng dây gân chắc chắn, chắc đến nỗi quét mòn nhẵn mà vẫn không bung. Chiếc bợ nhắc ngồi má làm gần chục cái, may tay, vải từ những quần áo rách của cả nhà dạt ra. Má treo rõ ràng: thứ này dùng nhắc nồi có lọ, thứ khác dùng nhắc nồi không lọ (do có vĩ)… Giàn bếp của nhà tôi đóng cái bếp bằng cây tràm, hình chữ nhật, bề ngang khoảng 8 tấc, chiều dài khoảng 1 thước 2, dưới chân thì đóng hai cây nằm ngang, vừa làm khung giữ cho giàn bếp chắc chắn, vừa để chất củi khô. Bếp của má lúc nào cũng sạch bóng, dù lúc lót bằng cây sóng lá hay lúc mua được 6 viên gạch tàu. Tôi nhớ, ngày má cưới vợ cho anh Hai tui, nói chuyện với đàng gái vài ba câu, má tìm cách đi lòng vòng xuống bếp. Về tôi hỏi, má nói: “Bây lựa vợ cũng phải coi cái bếp. Cái bếp nói lên hết trơn tính tình của đứa con gái. Má thấy anh Hai bây chọn trúng!”. Nghe vậy, anh Hai mừng rơn và đến nay, cháu nội của má đã sắp hết lớp 12.
Má trọng cái bếp như kiểu, có lần con gái má lục đục chuyện chồng con, má đi thăm về, ba hỏi: “Con Ba sao rồi bà?”. Má trả lời mà nước mắt rươm rướm: “Bếp núc lạnh tanh hà, chắc không được rồi ông à!”. Má tôi là vậy đó, ngày hai bữa nhóm lửa nấu cơm không hẳn là để giúp lòng đỡ đói mà còn nhóm lên tình thương yêu, nhóm ngọn lửa của tình thân ái. Chái bếp trong lòng má tôi là biểu thị cho hạnh phúc gia đình, cho bữa cơm ngon, cho tình san sẻ và cả những xót xa cho bất hạnh đời người.
Nơi chái bếp, những bữa cơm đầm ấm ngày Tết, những mẻ mứt gừng, mứt chuối cứ tỏa hương, mang hương xuân hương đời lan tỏa trong tôi, trong ba tôi và anh chị em tôi nữa. Làm mứt gì thì làm nhưng bao giờ cũng có mẻ mứt khóm. Má nói: “Thằng Út nó ưa ăn!”. “Ưa” là thích, còn thằng Út là tôi đây. Riêng tôi, tôi thích cái xịa má treo phía trên giàn bếp. Đó là nơi má đựng gia vị linh tinh, củ hành, củ tỏi và nhất là khi có củ khoai lùi tro, má để trên đó, dành phần tôi đi học về. Lúc rảnh, má kêu tôi lội đi kiếm lá “thúi địt” (tên dân gian xứ tôi kêu vậy, có tên khác là lá mơ) về làm bánh lá. Đó là thứ bánh rẻ tiền, dễ chế biến nhưng ngon không thể tả với tuổi thơ tôi bởi cái thời nghèo khó, thèm bánh khát trái.
Nhắc chái bếp của má, tôi cũng không làm sao quên được chiếc tủ bếp. Dân thành thị gọi là tủ gạc-măng-giê, phiên âm theo tiếng Pháp, nghĩa là nơi giữ thức ăn. Nhưng má tôi cứ gọi là tủ bếp, gọi với tất cả thương yêu và chơn chất của một người phụ nữ Nam bộ. Chiếc tủ bếp giờ má còn xài là bằng cây thao lao, tuổi đời hơn nửa thế kỷ. Bây giờ có tủ lạnh nhưng má vẫn giữ nguyên tủ bếp, 4 chân má kê 4 “chén cù lao” - nghĩa là bên ngoài như cái chén nhưng chính giữa có còi nổi lên để gác chân tủ - phòng kiến bò lên. Chiếc tủ bếp của má bây giờ vẫn y nguyên hồi xưa, vẫn có nồi cá kho ăn chưa hết, có chén nước mắm chấm chưa cạn, rồi có hủ cơm mẻ sực nức mùi chua, lỉnh kỉnh chai nước mắm, nước màu… Chiếc tủ bếp này có 3 ngăn cùng với nóc tủ cũng được tận dụng để đồ. Ngăn trên có hai cánh cửa dùng để đựng đồ ăn, ngăn giữa trống dùng để chai, hũ, thố đựng gia vị và ngăn dưới cùng để cất chén dĩa, thau chảo, phòng khi có đám tiệc hay nhà có khách. Đi học về là tôi chạy ù xuống tủ bếp, lục coi bữa nay ăn gì. Bữa nào má có đi chợ Ba Đình về, mua lon sữa rọng nước trong tủ là y như rằng, thằng Út cầm lên, nút hơi thật sâu, cho đã đời. Nghĩ lại bây giờ vẫn thấy ngon… Má đi đám tiệc về có cục xôi, viên chè cũng để trong tủ, chờ Út đi chơi về là má kêu: “Út, má có chừa mấy viên chè trong tủ bếp, ăn đi. À, mà ăn nhớ chừa cho chị Năm ít viên nghe”. Chừa ít viên của thằng Út hồi đó được hiểu là chỉ có 1 viên thôi!
Chái bếp trong ký ức của tôi có những người phụ nữ yêu thương nhất đời tôi. Là má tôi, những khi không nấu gì cũng xuống bộ ván ngựa ở chái bếp để nằm võng nghỉ lưng hoặc vá quần áo cho chồng con, sàng sảy gạo cho đừng có thóc, bông cỏ. Là chị Ba, chị Tư, chị Năm tôi hay ngồi trên ngựa cho má chải đầu, má dạy thêu thùa, vá may. Chỗ võng ấy cũng là nơi nuôi nấng tuổi thơ tôi với tiếng ru của má, của chị Ba. Tiếng ru hời bây giờ vẫn trong ký ức tôi đây: “Ầu ơ... Chiều chiều bắt két nhổ lông…” hay là “Ầu ơ... Trồng trầu trồng lộn dây tiêu”… Bây giờ bếp cũ không còn, má cũng già, mấy chị đi lấy chồng, người hạnh phúc, người lận đận. Chẳng sao đâu, đi đâu thì đi, gian truân cuộc đời thì ai cũng phải trải, nhưng mà chừng nào thấy mệt rồi, khổ đau lắm rồi thì về với má, về với chái bếp nhà mình.
Lần nào đi công tác về vùng quê, thấy hình ảnh chái bếp, tôi lại nhớ má nhiều. Nhớ má lụi hụi nhóm bếp lúc sớm mai; nhớ khói lam chiều lan tỏa nơi chái lá; nhớ những bữa chị em tôi cứ suýt xoa: “Má nấu gì mà thơm quá, làm con đói bụng muốn xỉu”… Nhớ dáng má ngồi chặt củi, bó lá dừa; nhớ nắm trấu má dùng chùi đít nồi; nhớ sóng chén kỹ càng từng cái một… Nỗi nhớ khiến tôi lớn thêm!