Chủ Nhật, ngày 16/03/2025 01:25 PM (GMT+7)
Chiếc giỏ trên Lộ 7
16/03/2025 13:24 GMT +7
Tháng ba, Tây Nguyên vào mùa đẹp nhất trong năm. Những rẫy cà phê trổ hoa trắng muốt, hương thơm dịu nhẹ lan trong gió. Nắng vàng trải dài trên những cánh rừng cao su bạt ngàn dọc quốc lộ 14.
- Cách nông dân vùng cao tiết kiệm nước, tưới tiêu hiệu quả cho cây trồng
- “Ngày hội Biên phòng toàn dân” trên tuyến biên giới tỉnh Sơn La
- Sơn La: Ký cam kết thực hiện quản lý, bảo vệ phát triển rừng
Đã 50 năm Buôn Ma Thuột được giải phóng. Nửa thế kỷ, thời gian đủ để những cánh rừng xanh lại, để những thị trấn hoang tàn năm xưa trở thành phố thị sầm uất, nhưng ký ức của những người lính đã từng chiến đấu trên miền đất này thì vẫn vẹn nguyên như mới hôm qua. Những trận đánh, những đồng đội đã ngã xuống và cả những cuộc gặp gỡ tình cờ trong những thời khắc lịch sử ấy đã thay đổi số phận của rất nhiều người…
Sáng sớm, khi sương còn bảng lảng trên những đồi chè, tôi nhận được cuộc gọi của Đức. Giọng anh vẫn sang sảng như ngày nào:
- A lô, Minh hả? Tao với bà xã định tổ chức một cuộc gặp mặt ở Buôn Ma Thuột. Quê (Cách gọi thân tình của bộ đội xe tăng dành cho nhau) lo tập hợp kíp xe đi. Vào đây, Tây Nguyên đang giữa mùa đẹp lắm. Vào đi, sẽ có nhiều chuyện để cho quê viết đấy.
Cúp máy, tôi vội gọi cho Trung, rồi Cường. Cả bọn hẹn nhau bay vào Buôn Ma Thuột. Bốn thằng chúng tôi, những thằng lính cùng một kíp xe từ cuộc chiến trở về, mỗi người một ngả, tháo ba lô, kiếm một nghề để sống. Mãi gần đây, tôi mới biết tin Đức đã chọn Tây Nguyên làm nơi lập nghiệp.
Ba thằng mua vé máy bay và lên đường vào Buôn Ma Thuột. Suốt chuyến bay, lòng tôi cứ xốn xang. Những ký ức cũ ùa về, sống động như mới ngày hôm qua…

Tháng Ba năm 1975.
Lữ đoàn Xe tăng 273 chúng tôi nằm trong đội hình Quân đoàn 3 cùng với Sư đoàn 320, Sư đoàn 316 và các đơn vị pháo binh, công binh vinh dự được tham gia Chiến dịch Tây Nguyên với trận đánh mở màn là cuộc tiến công thần tốc, đột phá vào trung tâm thị xã Buôn Ma Thuột.
Đó là ngày 10/3/1975.
Đến giờ nổ súng. Sau những loạt pháo lớn nã vào những mục tiêu then chốt của địch trong thị xã, đơn vị tôi nhận lệnh xuất kích. Những chiếc T-54, PT-76 của của tiểu đoàn gầm rú, lao qua các tuyến phòng ngự kiên cố của địch, khói lửa ngùn ngụt bốc lên từ Sở chỉ huy Quân đoàn 2 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Chúng tôi nhanh chóng đánh chiếm sân bay Hòa Bình và Tổng kho Mai Hắc Đế. Địch hoảng loạn tháo chạy, những toán quân còn sót lại cố co cụm nhưng bị tiêu diệt nhanh chóng. Đến sáng 11/3, thị xã Buôn Ma Thuột được hoàn toàn giải phóng. Lá cờ của Mặt trận Giải phóng tung bay trên nóc Tòa hành chính của tỉnh Đăk Lăk.
Khi những chiếc xe tăng của đơn vị tôi dừng lại tại khu vực ngã 6, trung tâm thị xã, đồng bào các dân tộc Buôn Ma Thuột ùa ra đường, cầm cờ hoa vẫy chào những người lính "Việt Cộng" vào giải phóng thị xã. Không còn những ánh mắt lo âu, sợ hãi, thay vào đó là niềm hân hoan, xúc động đến rơi nước mắt....Những bàn tay gầy guộc chạm vào xích sắt của những chiếc xe tăng đầy bùn đất. Những cụ già run run sờ vào tháp pháo, bọn trẻ con thì bám lấy những người lính Giải phóng, mắt tròn xoe ngắm nhìn bộ quân phục bạc màu vì nắng gió Trường Sơn.
Một bà mẹ đến ôm chầm lấy chúng tôi, nghẹn ngào: “Bộ đội ơi, các con ở đâu đến mà đánh giặc giỏi thế?”. Chúng tôi cười, những gương mặt xạm nắng sau bao ngày hành quân bỗng trở nên rạng rỡ đến lạ thường.
Thế rồi, chưa kịp nghỉ, đơn vị lại nhận lệnh mới. Tiểu đoàn tôi được tăng cường cho Sư đoàn 320, tiến công, tiêu diệt lực lượng địch rút chạy khỏi Tây Nguyên theo đường số 7. Điện của Lữ đoàn ghi rõ: “Khẩn trương cơ động lực lượng, kiên quyết tiêu diệt địch tại Cheo Reo (Phú Bổn), không để cho chúng lập tuyến phòng thủ mới ở Tuy Hòa, Quy Nhơn”.

Sau khi Buôn Ma Thuột thất thủ, Bộ Tư lệnh Quân đoàn II của quân đội Sài Gòn hoảng loạn. Lệnh rút lui được ban ra. Hàng vạn binh lính, gia đình sĩ quan cùng dân thường chen chúc nhau trên con đường số 7, từ Pleiku xuôi về Cheo Reo (Phú Bổn), rồi theo quốc lộ 1 về Tuy Hòa.
Vậy là ngay chiều 13/3, chúng tôi gấp rút lên đường. Những cỗ máy bằng thép không được nghỉ ngày nào, giờ lại tiếp tục lăn trên con đường đỏ bụi. Đoàn xe tăng như những chú cua càng cày qua những đoạn đường mấp mô, để lại phía sau những vệt xích in hằn lên mặt đất đỏ quạch.
Đoàn xe của chúng tôi chạy giữa dòng người chạy dài bất tận. Xe quân sự, xe tải, xe đò, xe jeep, Honda, thậm chí cả những chiếc xe bò cũng bị cuốn vào cơn lốc di tản. Trên thùng xe, trên nóc xe, dưới gầm xe... chỗ nào cũng chật ních người. Phụ nữ ôm con thơ, những đứa trẻ mặt lấm lem sợ hãi bám chặt lấy mẹ. Cả một biển người hỗn loạn. Ai cũng hối hả, ai cũng sợ hãi, ánh mắt hoang mang như đang chạy trốn chính số phận của mình.
Nửa đêm, khi chúng tôi đến một đoạn cua gấp khúc, bỗng thằng Đức, trưởng xe la lên:
- Dừng lại. Có cái gì bên vệ đường kìa.
Lập tức Cường kéo cần lái phải, chiếc T-54 ngoặt vào lề đường rồi dừng lại. Mấy anh em tôi nhảy xuống. Dưới ánh trăng nhợt nhạt, giữa đống đồ đạc vương vãi, một chiếc giỏ nhỏ bé chao đảo trong cơn gió bụi. Tiếng khóc văng vẳng từ bên trong... Nhìn vào trong giỏ, một đứa trẻ đỏ hỏn quấn trong tấm vải mỏng, mặt tái nhợt vì lạnh đang giãy giụa, hai bàn tay nhỏ xíu quờ quạng trong không trung. Nó khóc đến khàn cả giọng.
Tôi giật mình. Mấy đứa chúng tôi đã từng xông pha giữa bom đạn, đối mặt với những tình huống sinh tử chẳng hề chùn bước. Vậy mà giờ đây bỗng trở nên lóng ngóng như mấy gã nhà quê lần đầu ra phố huyện.
Bốn thằng đứng thành vòng tròn, nhìn xuống chiếc giỏ mà không biết phải xử trí thế nào.
- Giờ làm sao các quê? - Đức hỏi, giọng gấp gáp.
Không ai trả lời. Đứa nhỏ vẫn quẫy đạp trong chiếc giỏ, đôi mắt nhắm nghiền, môi tím bợt vì lạnh. Tôi hắng giọng:
- Thôi, cứ ẵm lên xe cái đã.
Chứ để lại đây thì nó chết mất! Không chờ ai đồng ý, tôi cúi xuống, nhẹ nhàng nhấc chiếc giỏ lên. Cái thân thể bé nhỏ ấy nằm gọn trong hai bàn tay tôi, nhẹ như một nhành cây khô. Cường vội cởi chiếc áo trấn thủ quấn quanh người đứa bé.
- Con ai chơ? - Bình nhìn quanh.
Dòng người vẫn cuồn cuộn qua. Không ai để ý đến chúng tôi. Những khuôn mặt bơ phờ, những dáng người thất thểu vội vã bước đi, chẳng ai ngoái lại. Chắc hẳn mẹ nó đã không còn ở đây.
- Hay mình cứ giao lại cho ai đó chứ đánh nhau thế này, mang nó theo sao được? - Cường dè dặt.
- Ai nhận? Tôi bật lại ngay. Trong hoàn cảnh này, người ta lo chạy còn không kịp, ai dám bồng theo một đứa trẻ không rõ gốc tích?
Mọi người im lặng. Tôi siết chặt chiếc giỏ trong tay.
- Đem lên xe – Đức gật đầu, ánh mắt kiên quyết.
Vậy là chiếc giỏ được buộc ngay phía sau tháp pháo, cùng chúng tôi đi suốt đêm hôm đó. Lính xe tăng, quen nắm cần lái, quen cầm súng, giờ đến bế một đứa bé cũng lóng ngóng. Cường nói đùa:
- Không biết cha mẹ nó có phải lính ngụy không?
Bình lừ mắt:
- Trẻ con biết gì mà phân biệt? Người ta bỏ nó lại thế này, chẳng thà cứ đem về rồi tính sau.

Sáng 14 tháng 3. Cả tiểu đoàn dừng lại ven một buôn nhỏ dọc đường. Lúc đưa chiếc giỏ ra khỏi xe, tôi giật mình nhìn xuống. Một đôi mắt tròn xoe, đen láy. Đứa bé không khóc, nhìn tôi chằm chằm.
- Ừa. quê nhìn cái chi? – Tôi bật cười, chọc nhẹ vào bàn tay bé xíu của nó.
- Hay chúng mình đặt tên cho nó đi! - Đức nói.
- Tên chi? – Cường hỏi. Tôi nhìn xuống con đường bụi đỏ, nơi những vệt xích xe hằn sâu xuống đất, mà nghĩ về một ngày hòa bình, đất nước an yên.
- Tên là An đi các quê. Mong đứa bé sẽ có một cuộc đời bình an.
Đề xuất của tôi được mọi người tán thưởng. Tất cả thống nhất đặt tên nó là An. Ai cũng phấn chấn. Nhưng việc quan trọng bây giờ là phải gửi được An, chứ để con bé theo xe sao được.
Cả bọn nhìn quanh. Đức chỉ tay về phía một ngôi nhà nhỏ bên đường. Chúng tôi vội vã ôm chiếc giỏ chạy đến, gõ cửa. Một lát sau, cánh cửa hé mở, một cô gái trẻ thò đầu ra. Đôi mắt tròn đen láy ánh lên vẻ cảnh giác. Mái tóc xoăn tự nhiên ôm lấy khuôn mặt rám màu nắng, đôi tay gầy guộc vẫn nắm chặt cánh cửa.
Vừa thấy chúng tôi, cô giật mình, vội kéo sập cửa lại.
“Cô ơi”. Tôi vội vàng chặn tay giữ cửa, giọng khẩn thiết: “Chúng tôi không phải lính Sài Gòn. Chúng tôi là bộ đội…”
Cô gái ngập ngừng: “Bộ đội… Việt Cộng?”
“Đúng rồi. Chúng tôi là bộ đội Bok Hồ”. Tôi mỉm cười gật đầu.
Nghe đến "Bok Hồ", cô gái khựng lại. Một thoáng im lặng trôi qua. Đức tiến lên, nhẹ nhàng đặt chiếc giỏ xuống trước mặt cô.
“Cô giúp chúng tôi với… Chúng tôi đang hành quân, không thể mang theo cháu bé này. Chúng tôi đã nhặt được nó trên đường. Nếu sau này có cơ hội, chúng tôi sẽ quay lại…”.
Cô gái sững lại, cắn môi, đôi mắt ánh lên sự do dự, rồi ánh mắt dừng trên khuôn mặt nhỏ nhắn của đứa trẻ. Nó đang ngủ, bàn tay bé xíu vẫn bấu vào vạt áo tôi. Rồi đột nhiên, cô nhẹ nhàng vươn tay đón lấy đứa bé.
“Tôi là H’Liêng, người Êđê. Nhà tôi không có gì... nhưng tôi sẽ cố. Tôi sẽ nuôi nó”- Cô gái ôm chặt lấy đứa bé, như thể nếu buông ra, chúng tôi sẽ mang nó đi mất.
Tôi thở phào nhẹ nhõm, nhìn sang Đức và Cường, rồi cả ba cùng mỉm cười. Đức cẩn thận lấy trong túi một cái hộp nhỏ bọc vải dù, đặt vào tay H’Liêng. “Đây là chút gạo sấy, đường và ít tiền chúng tôi có. Chúng tôi không biết mai sẽ ra sao, nhưng mong cô hãy nuôi nấng đứa trẻ này”.
H’ Liêng gật đầu.
Tôi vội rút mẩu giấy, viết nguệch ngoạc vài dòng: "Chúng tôi là bộ đội xe tăng, Tiểu đoàn 7, Lữ đoàn 273, đang truy kích địch. Xin gửi lại cháu bé này cho cô H’Liêng. Nếu còn sống, nhất định chúng tôi sẽ quay lại".
Bốn cái tên lần lượt ký phía dưới: Đức, Minh, Trung, Cường.
Chúng tôi nhìn nhau, khắc sâu cái tên "H’Liêng" vào lòng. Sau khi xác định đây là buôn M’ga trên bản đồ, chúng tôi cúi đầu cảm ơn H’Liêng, rồi quay người vội vã lên xe. Cả đoàn phải tiếp tục hành quân.
Tiếng động cơ xe gầm lên, từ sườn xe phả ra một làn khói xanh lét. Chiếc xe chồm lên, cuốn theo một làn bụi đỏ mịt mù. Tôi ngoái lại lần cuối. H’Liêng vẫn đứng đó, ôm chặt đứa bé vào lòng, bóng cô nhỏ dần giữa con đường hoang hoải…

Buôn Ma Thuột, tháng Ba, năm 2025.
Máy bay hạ cánh xuống sân bay. Đức và vợ đã đứng đợi sẵn ở nhà ga. Đức, giờ đã ngoài 70, mái tóc bạc trắng nhưng vẫn giữ được phong thái rắn rỏi. Bên cạnh ông là một người phụ nữ đã có tuổi, nước da nâu sạm nhưng gương mặt phúc hậu. Ngay khi nhìn thấy vợ Đức, tất cả chúng tôi đều khựng lại. Có cái gì đó… rất quen thuộc.
Trung nhíu mày, lẩm bẩm: “Hình như…”
Cường bỗng thốt lên: “Quê Đức, có phải là…?”
Người phụ nữ mỉm cười, ánh mắt dịu dàng mà xa xăm. Đức gật đầu, nắm chặt lấy tay bà: “Các quê ạ, để tao giới thiệu… Đây là vợ tao, H’Liêng”.
H’Liêng mỉm cười, nhìn chúng tôi:
- Dạ. Em là H’Liêng, vợ anh Đức ạ.
Một giây im lặng kéo dài. Tôi siết chặt quai ba lô, giọng nghèn nghẹn:
- “Vậy ra…”
- “Phải”. Đức cười, mắt ánh lên niềm vui: “Chuyện dài lắm, để về nhà tao sẽ kể. Nhưng ngay sau ngày chiến thắng tao trở về quê rồi quay lại Tây Nguyên để tìm mẹ con An. Tao không thể yên tâm khi để mẹ con cô ấy ở đây một mình. Và giờ đây, chúng tao là một gia đình. Tao muốn giữ bí mật này nên hôm trước mới nói với quê Minh rằng vào đây, quê thoải mái viết đó”.
Cả bọn đứng sững, rồi bỗng nhiên òa lên, kẻ cười, người khóc. Tất cả ôm chầm lấy nhau. Tròn nửa thế kỷ đã trôi qua. Những tưởng cuộc chiến chỉ còn là ký ức. Vậy mà giờ đây, giữa lòng Tây Nguyên, họ lại tìm thấy một mảnh ghép cũ chưa từng nghĩ đến. Không ai nói gì thêm. Chỉ có những vòng tay siết chặt, những bàn tay già nua run run vỗ lên lưng nhau.
Đêm nay, Buôn Ma Thuột rực rỡ trong ngày hội mừng chiến thắng. Thành phố bừng sáng trong ánh pháo hoa rực rỡ, những tia sáng xòe ra, lấp lánh. Cả kíp xe năm xưa: Trưởng xe Trần Đức, pháo thủ Tiến Minh, pháo hai Thành Trung, lái xe Đức Cường, cùng bà H’Liêng, vợ chồng cô bé An ngày nào và mấy đứa cháu của An đứng giữa Ngã Sáu, bên Tượng đài chiếc xe tăng T.54 mang số hiệu 980, tay xiết lấy tay nhau, cùng ngước lên nhìn những chùm pháo hoa bay lên, nở rộ giữa bầu trời thành phố.
Mấy đứa cháu của An túm lấy tay các cụ, reo lên thích thú: “Cụ Ngoại ơi… bông kia đẹp quá, Ngoại nhỉ?”.
An đứng lặng, khoác lấy tay chồng. Đôi mắt cô ngước lên bầu trời, rồi lại nhìn mẹ, nhìn chúng tôi, nhìn mấy đứa cháu ríu rít bên các “Cụ Ngoại”. Trong ánh sáng rực rỡ của pháo hoa, nụ cười cô rạng rỡ, ánh mắt long lanh với niềm hạnh phúc trọn vẹn.
Năm mươi năm… Và chúng tôi đã tìm thấy nhau giữa mảnh đất ân tình.
Nguyễn Vũ Điền
Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Sơn La
Nguyên giáo viên trường Sỹ quan Tăng – Thiết giáp
Tags:
Xã vùng cao Sơn La giữ vững danh hiệu không có ma túy
Duy trì và thực hiện có hiệu quả mô hình “Phụ nữ có chồng, con không vi phạm về ma túy”, mô hình “Trường học an toàn không ma túy”, câu lạc bộ “Thanh niên nói không với ma túy”, xã Chiềng Ngàm, huyện Thuận Châu (Sơn La) giữ vững danh hiệu xã không có ma túy.
Nông dân Sơn La dồn sức chăm sóc cây ăn quả mùa ra hoa, kết trái
Những năm qua, huyện Mai Sơn (Sơn La) đẩy mạnh tổ chức các lớp tập huấn hướng dẫn người dân kỹ thuật chăm sóc cây ăn quả, đặc biệt là thời kỳ ra hoa, đậu quả, vì đây là giai đoạn quan trọng quyết định năng suất, chất lượng quả.
Sơn La: Huấn luyện quân năm 2025 “thần tốc, quyết thắng”
Tiểu đoàn Bộ binh I, Trung đoàn 754, Bộ chỉ huy Quân sự (CHQS) và Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng (BĐBP) tỉnh Sơn La đã tổ chức lễ ra quân huấn luyện năm 2025; phát động đợt thi đua cao điểm “thần tốc, quyết thắng”.