Thực tế này đã không chỉ làm chậm tiến trình đưa nguồn lực về cơ sở, làm chậm tiến độ giải ngân vốn hỗ trợ sản xuất của tỉnh Điện Biên trong khi hộ nghèo, người dân vùng dân tộc thiểu số, biên giới ở cơ sở lại đang rất cần nguồn hỗ trợ từ các chương trình. Báo Dân Việt/Trang Trại Việt điện tử xin giới thiệu loạt 2 bài phản ánh về thực trạng này.
Loay hoay lựa chọn mô hình hỗ trợ sản xuất (bài 1)
Tỷ lệ giải ngân đạt thấp
Thông tin số lượng mô hình sản xuất được thực hiện từ nguồn vốn sự nghiệp các chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn tỉnh Điện Biên trong hai năm qua, bà Chu Thị Thanh Xuân, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Điện Biên, cho biết: Sau hai năm thực hiện, toàn tỉnh có 122 dự án liên kết sản xuất nông nghiệp (chủ yếu là các dự án liên kết trồng mắc ca của huyện Tuần Giáo) và 542 dự án cộng đồng (là hỗ trợ cây, con giống) trên địa bàn các huyện. Năm 2023, tỷ lệ giải ngân vốn sự nghiệp hỗ trợ sản xuất từ các chương trình chỉ đạt 18,2% so với tổng kế hoạch vốn giao. Với kết quả này, ngành Nông nghiệp đánh giá các mô hình liên kết, dự án cộng đồng còn quá khiêm tốn trong khi nguồn lực từ ba chương trình đầu tư còn rất lớn; hai năm liên tiếp (2022 và 2023) Điện Biên đều phải chuyển nguồn năm trước sang năm sau.
Thừa nhận khó khăn khách quan và cả chủ quan trong thực hiện các mô hình hỗ trợ sản xuất, tại cuộc họp lần thứ 20 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Điện Biên khoá XIV vừa qua, Bí thư Huyện uỷ các huyện: Tủa Chùa, Nậm Pồ, Mường Chà, Mường Nhé, Mường Ảng, Tuần Giáo đều chung khẳng định, nguồn vốn hỗ trợ sản xuất từ các chương trình mục tiêu quốc gia dành cho người nghèo, người dân tộc thiểu số ở vùng cao, biên giới là nguồn lực rất lớn, rất cần thiết giúp người nghèo vươn lên. Vậy nhưng việc triển khai lựa chọn mô hình, lựa chọn (cây, con giống) để thực hiện hỗ trợ lại rất khó khăn cho nên dù đã gần hết giai đoạn đầu thực hiện mà nhiều huyện vẫn loay hoay với việc lựa chọn cây, con gì để hỗ trợ người dân.
Ông Vùi Văn Nguyện, nguyên Bí thư Huyện uỷ Tủa Chùa, nói rằng: Cán bộ cấp huyện rất trách nhiệm trong tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia các mô hình sản xuất theo hình thức liên kết hoặc dự án cộng đồng nhưng phần do nhận thức, phần do tập quán sản xuất với tư duy nhỏ lẻ cho nên người dân không mặn mà. Điểm lại sau mấy năm triển khai, hiện Tủa Chùa có 9ha cây cà gai leo là cây trồng mới được đưa về địa bàn trồng thử nghiệm theo hình thức liên kết cho kết quả khả quan; cây sinh trưởng tốt, ít sâu bệnh, phù hợp khí hậu địa phương và người dân mong muốn được hỗ trợ mở rộng diện tích.
Bí thư Huyện uỷ Mường Ảng Nguyễn Tiến Đạt, nói rằng: Đối tượng thụ hưởng nhiều, thuộc nhiều địa bàn, nhiều dân tộc thiểu số với thói quen, tập quán, trình độ sản xuất khác nhau vậy nên khi triển khai hỗ trợ sản xuất từ nguồn vốn các chương trình mục tiêu quốc gia, Mường Ảng nhận thấy rất khó khăn. Thêm vào đó là điều kiện, thủ tục, quy trình thực hiện, giải ngân hết sức chặt chẽ; làm không khéo rất dễ mang hệ luỵ. Trên cơ sở tập hợp đề xuất của người dân và thực tiễn địa bàn, căn cứ Đề án tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp và quy hoạch phát triển nông nghiệp của tỉnh, Mường Ảng quyết định lựa chọn cây cà phê để hỗ trợ từ nguồn vốn hỗ trợ sản xuất. Trong năm 2024 Mường Ảng sẽ trồng thêm 500ha cây cà phê từ nguồn vốn các chương trình mục tiêu quốc gia hỗ trợ.
Rất khó tìm được mô hình phù hợp với phương thức canh tác
Với Nậm Pồ - huyện biên giới thuộc diện đặc biệt khó khăn đến nay đã có một số mô hình sản xuất liên kết theo chuỗi thành công, như: mô hình trồng rau, củ, quả tại xã Si Pa Phìn; mật ong rừng Chà Nưa; cam Nậm Tin; tinh dầu sả tại xã Vàng Đán… Vậy nhưng Bí thư Huyện uỷ Nậm Pồ Lê Khánh Hoà vẫn khẳng định: "Rất khó khăn". Ông Lê Khánh Hoà nói rằng phát triển các mô hình sản xuất trên địa bàn các huyện miền núi và việc sử dụng các nguồn vốn hỗ trợ các chương trình mục tiêu quốc gia có rất nhiều khó khăn. Qua thực tế triển khai các mô hình trồng thử nghiệm chanh leo, rau, quế, cam tại địa bàn, Nậm Pồ có cơ sở nhận thấy không phải các loại cây này không phù hợp mà vấn đề là ý thức người dân. Vốn quen với cách gieo trồng rồi đợi ngày thu hái cho nên ngay cả khi được hướng dẫn quy trình kỹ thuật chăm sóc theo chu kỳ sinh trưởng của cây thì người dân vẫn không tuân thủ. Do vậy rất nhiều mô hình đã triển khai không đem lại kết quả như mong đợi.
Rút kinh nghiệm từ thực tế đó, đầu năm 2023, Ban Thường vụ Huyện uỷ Nậm Pồ đã giao nhiệm vụ, phân công từng đồng chí phụ trách địa bàn; đồng thời khuyến khích mỗi cán bộ, đảng viên chủ chốt của huyện phải thực hiện hoặc hỗ trợ thực hiện ít nhất là một mô hình sản xuất trở lên để làm gương, làm mẫu. Kết quả thực hiện mô hình được coi là tiêu chí cứng trong đánh giá, xếp loại cán bộ cuối năm. Làm theo cách đó, Nậm Pồ đã có nhiều mô hình sản xuất do cán bộ thực hiện đem lại hiệu quả, khẳng định giá trị kinh tế vượt trội của cây trồng mới và sự phù hợp của cây với thời tiết khí hậu địa phương. Đồng chí Lê Khánh Hoà, cho biết: Qua thử nghiệm, Nậm Pồ rút kinh nghiệm là không triển khai hỗ trợ sản xuất một cách ồ ạt, phong trào mà phải chọn phương án làm đâu chắc đó, lựa chọn người có điều kiện, ý thức tham gia mô hình. Chính vì vậy, ngoài một số mô hình rau, củ, Nậm Pồ quyết định lựa chọn cây quế là đối tượng chính để hỗ trợ người dân trên địa bàn. Dự kiến, Nậm Pồ sẽ trồng hơn 2.000ha quế trong năm nay.
Mời các bạn đón đọc bài tiếp theo xuất bản lúc 6h00 ngày 21/8 trên báo điện tử Trang Trại Việt: Cán bộ phải quyết tâm làm vì người nghèo (Bài 2)