dd/mm/yyyy

Độc đáo nghề rèn truyền thống của dân tộc Mông

Đồng bào dân tộc Mông có nhiều nghề truyền thống mang nét văn hóa độc đáo đặc trưng cho dân tộc như nghề chế tác nhạc cụ, nghề nhuộm chàm, thêu dệt thổ cẩm, nghề đan lát các dụng cụ sinh hoạt. Trong đó, phải kể đến nghề rèn đúc nông cụ thủ công.

Nghề rèn của dân tộc Mông có từ lâu đời. Trước kia, hầu như gia đình người Mông nào cũng có một lò rèn riêng để làm nông cụ và đồ dùng sinh hoạt trong gia đình. Ngày nay trong xu thế phát triển, nhưng nhiều người dân tộc Mông vẫn thích sử dụng các nông cụ do tự tay mình làm ra hoặc do chính đồng bào mình làm ra theo phương thức thủ công...

Các sản phẩm rèn của người Mông nổi tiếng bởi độ bền, độ tinh xảo với bí quyết riêng đã được rất nhiều người biết đến với những sản phẩm như con dao, chiếc xẻng, lưỡi cày hay chiếc cuốc...

Độc đáo Nghề rèn truyền thống của dân tộc Mông - Ảnh 1.

Ông Mùa A Mang, thôn Tả Phìn, xã Tả Phìn (huyện Tủa Chùa, tỉnh Điện Biên) rèn dao phát, chuẩn bị cho mùa phát nương, gieo hạt mới.

Những nghệ nhân rèn người dân tộc Mông thường được sinh ra trong những gia đình có nghề rèn truyền thống. Ở những gia đình như thế, từ lâu lắm rồi, người con theo cha vào rừng tìm cây gỗ cho than tốt để rèn. Khi sản phẩm định hình, người cha chỉ cho con biết lúc nào có thể tôi để con dao cứng mà không giòn, dẻo dai mà sắc lẹm.

Nghề rèn của người Mông thể hiện sự tài hoa, sáng tạo, với những sản phẩm tinh xảo vừa có giá trị làm vật dụng vừa thể hiện bản sắc văn hóa.

Bí quyết để làm ra những con dao, lưỡi cuốc, lưỡi cày sắc ngọt và có độ bền cao, đầu tiên phải lựa chọn được loại thép tốt. Loại thép thường được người Mông sử dụng đó là nhíp ô tô, nhất là nhíp của ô tô sản xuất cách đây vài chục năm.

Bên cạnh đó, kỹ thuật tôi thép cũng rất quan trọng, thép nung phải đủ độ nóng, không non quá cũng không được quá già lửa. Kỹ thuật này quyết định độ bền của sản phẩm.

Độc đáo Nghề rèn truyền thống của dân tộc Mông - Ảnh 3.

Lò rèn của người Mông không cầu kỳ, chỉ có một ụ đất làm lò, vài cục sắt to làm đe và một cái bễ

Than đốt lò của người Mông cũng rất đặc biệt. Người Mông không dùng than đá mà dùng than củi của cây rừng. Trong khi rèn nhiệt độ lò rèn phải nóng đều mới cho ra sản phẩm tốt nên yêu cầu người quay lò phải đều tay.

Lò rèn của người Mông không cầu kỳ, chỉ có một ụ đất làm lò, vài cục sắt to làm đe và một cái bễ. Cái bễ là quan trong nhất. Nó cấu tạo như một cái bơm xe đạp khổng lồ nằm ngang. Cái bơm ấy được khoét ra từ thân cây đường kính khoảng 50cm. Pít tông là một miếng gỗ tròn như cái thớt được gắn lông gà xung quanh để dễ dàng tịnh tiến trong lòng cây gỗ, người thợ đẩy pít tông, rất nhẹ nhàng và không tốn sức.

Ngày trước, 100% công đoạn đều thủ công nhưng ngày nay một số công đoạn làm rèn, người Mông đã sử dụng quạt điện thổi lò, máy mài.

Tuy nhiên các công đoạn quan trọng nhất từ khâu cắt sắt, tạo hình, quai búa, tay cầm… vẫn làm bằng tay. Vì vậy, đồ rèn của người Mông làm ra có độ tinh xảo riêng, sắc bén và bền lâu với thời gian.

Độc đáo Nghề rèn truyền thống của dân tộc Mông - Ảnh 4.

Người Mông không dùng than đá mà dùng than củi của cây rừng để đốt lò rèn. Trong khi rèn nhiệt độ lò rèn phải nóng đều mới cho ra sản phẩm tốt.

Nghề rèn của đồng bào Mông không chỉ tạo ra những nông cụ thiết thực trong đời sống mà còn góp phần duy trì nét văn hóa độc đáo truyền thống của dân tộc mình. Hiện nay, trong các thôn, bản người Mông, chỉ còn rất ít hộ lưu giữ nghề rèn truyền thống nhưng nhu cầu sử dụng nông cụ rèn vẫn rất lớn. Do đó, một số hộ vẫn giữ nghề rèn, tạo ra nông cụ để bán tại các phiên chợ, tăng thu nhập.

Gia đình ông Mùa A Mang, thôn Tả Phìn, xã Tả Phìn (huyện Tủa Chùa) là một trong số ít hộ người Mông trong thôn còn giữ nghề rèn truyền thống. Ban đầu ông chỉ rèn nông cụ cho gia đình. Sau đó, ông rèn thêm nhiều sản phẩm để bán cho bà con trong thôn.

Hơn 40 năm kinh nghiệm làm nghề, ông Mùa A Mang chia sẻ: Sự tỉ mỉ, khéo léo đều có thể được rèn luyện qua quá trình làm nghề song yêu cầu đầu tiên và xuyên suốt của nghề rèn là người thợ rèn phải có sức khỏe tốt. Người thợ cả và thợ phụ phải có sự phối hợp nhịp nhàng, lực búa giáng xuống thanh thép phải đều nhau, độ mạnh yếu biến hóa với từng phần của sản phẩm. Trước đây, lò rèn chỉ đỏ lửa vào dịp mùa xuân nhưng nay hoạt động quanh năm, ngoài sản xuất phục vụ nhu cầu gia đình còn bán tại các chợ phiên trên địa bàn.

Nghề rèn đòi hỏi người thợ phải có sức khỏe, sự khéo léo, cũng như sự kiên trì và sáng tạo mới có thể cho ra lò những sản phẩm tinh xảo vừa có giá trị làm vật dụng vừa thể hiện bản sắc văn hóa truyền thống độc đáo riêng của dân tộc Mông.

Độc đáo Nghề rèn truyền thống của dân tộc Mông - Ảnh 5.

Nghề rèn đòi hỏi người thợ phải có sức khỏe, sự khéo léo, cũng như sự kiên trì và sáng tạo mới có thể cho ra lò những sản phẩm tinh xảo.

Trong những năm qua, việc bảo tồn và gìn giữ nghề truyền thống, nhất là nghề rèn của người Mông cũng đã được các cấp ngành đặt ra. Thế nhưng, trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt hiện nay, cũng như các nghề truyền thống khác, nghề rèn của người Mông gặp không ít khó khăn. Sản phẩm làm ra vẫn chưa được tiêu thụ rộng rãi mà chỉ phục vụ cho nhu cầu trong gia đình là chủ yếu.

Nghề rèn của người Mông chủ yếu tồn tại theo kiểu "cha truyền con nối", không có tài liệu hay sổ sách ghi chép lại nên dần dần nó đã bị mai một. Những thợ rèn tay nghề cao mất đi, trong khi giới trẻ lại không còn ai mặn mà với nghề của cha ông. Việc khôi phục, bảo tồn và phát huy, phát triển nghề rèn truyền thống của người Mông là một việc làm hết sức cấp bách đang đặt ra. Bởi nó không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội mà còn góp phần gìn giữ bản sắc văn hoá độc đáo riêng của dân tộc.

Vinh Duy