Thứ Năm, ngày 16/01/2025 11:11 AM (GMT+7)
TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe hiến kế phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập
2022-08-20 19:08:00
Sáng nay (20/8), Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị “Phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập”. Hội nghị nhằm tìm ra lời giải cho những thách thức đối với thị trường lao động trong thời gian qua.
Hội nghị diễn ra dưới hình thức trực tiếp tại Hà Nội, dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, kết nối đến đầu cầu 63 tỉnh, thành phố trên cả nước. Tham dự Hội nghị tại đầu cầu Hà Nội có Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, lãnh đạo các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Công Thương, LĐ-TB&XH, VHTT&DL, GD&ĐT, Công an, Ngân hàng Nhà nước..., Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, đại diện một số doanh nghiệp, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, và đại diện một số tổ chức, chuyên gia quốc tế.
Tại Hội nghị, lãnh đạo Bộ LĐTB&XH sẽ trình bày Báo cáo tình hình thị trường lao động thời gian qua; nhận diện những thuận lợi, cơ hội, khó khăn, thách thức hiện nay để đề xuất các giải pháp hỗ trợ phát triển thị trường lao động nhanh, hiệu quả để làm cơ sở phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam.
Hội nghị cũng sẽ lắng nghe những kiến nghị từ cộng đồng DN do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) trình bày, đề cập đến bối cảnh chịu tác động kép bởi đại dịch COVID-19 và cách mạng công nghiệp lần thứ tư khiến thị trường lao động Việt nam đang có nhiều thay đổi mạnh mẽ. Trong đó, hai thách thức nổi lên là: thiếu hụt lao động có kỹ năng và các thay đổi về yêu cầu kỹ năng đối với người lao động dưới tác động của việc thay đổi công nghệ, chuyển đổi số và tự động hóa khiến cho yêu cầu về kỹ năng của người lao động cũng thay đổi nhanh hơn, chu kỳ thay đổi cũng ngắn hơn.
Tại Hội nghị, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cũng kiến nghị những giải pháp để phát triển thị trường lao động, phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững. Theo Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, cần hết sức chú trọng chăm lo tốt đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động. Bởi lẽ, con người luôn phải là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển.
Hội nghị cũng là dịp để các địa phương, doanh nghiệp, chuyên gia trong nước và quốc tế "hiến kế" phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập.
Theo Bộ LĐTB&XH, thị trường lao động Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc cả về quy mô và chất lượng, từng bước hiện đại, đầy đủ và hội nhập quốc tế. Theo đó, khuôn khổ thể chế, chính sách ngày càng hoàn thiện; quy mô và chất lượng cung lao động tăng lên; cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực thu nhập, tiền lương của người lao động được cải thiện, năng suất lao động và tính cạnh tranh của lực lượng lao động được nâng lên.
Cụ thể, quy mô lực lượng lao động ngày càng tăng, nguồn cung được đảm bảo với trên 51,6 triệu người. Chất lượng lao động ngày càng nâng cao, tỉ lệ qua đào tạo tăng qua từng năm, tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 26,2%. Cơ cấu lao động tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp, tăng tỉ trọng lao động trong khu vực công nghiệp và dịch vụ. Vấn đề giải quyết việc làm được đẩy mạnh, góp phần duy trì tỉ lệ thất nghiệp chung của cả nước luôn dao động trong khoảng 2,2-2,3%.
Tuy nhiên, các chuyên gia cũng chỉ rõ, thị trường lao động nước ta còn chưa phát triển kịp với tốc độ và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tính thích ứng, chủ động, linh hoạt kém, nhất là trước những "cú sốc" như đại dịch COVID-19 đã bộc lộ những bất cập như: áp lực giải quyết việc làm cho gần 2 triệu lao động rời khỏi thị trường lao động (phần lớn là lao động tự do, không có trình độ chuyên môn kỹ thuật); tình trạng khan hiếm lao động cục bộ ở một số ngành, lĩnh vực, địa bàn còn tồn tại; chưa có giải pháp để nâng tầm, khai thác và thu hút lao động tại chỗ hiệu quả; tiềm ẩn nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng, thiếu hụt lao động cho giai đoạn phục hồi và phát triển; sự thiếu hụt các kỹ năng của người lao động để duy trì việc làm hoặc chuyển đổi 2 nghề, thích ứng với tình hình sau đại dịch; thiếu cơ sở dữ liệu điện tử trong quản lý lao động, nhu cầu kỹ năng tương lai.
Phát biểu kết luận Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh: Trong một buổi sáng thứ 7 làm việc tập trung, hiệu quả, Hội nghị đã được nghe nhiều ý kiến rất tâm huyết, trách nhiệm, sát thực tiễn về vấn đề phát triển thị trường lao động và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam. Nhiều ý kiến phân tích, đánh giá rất sâu sắc và gợi ý, đề xuất định hướng, nhiệm vụ, giải pháp rất cụ thể, thiết thực cả về lý luận và thực tiễn, nhất là các tổ chức quốc tế có ý nhiều ý kiến sát thực tế Việt Nam.
Tôi hoan nghênh và đánh giá cao Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã chủ động, tích cực phối hợp với các bộ, ngành liên quan tham mưu tổ chức thành công Hội nghị hôm nay trên tinh thần phát huy dân chủ. Đây là một hội nghị rất quan trọng, sau các hội nghị về thị trường vốn và bất động sản và sắp tới các hội nghị khác như về phát triển thị trường khoa học công nghệ.
Hội nghị hôm nay góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần thúc đẩy phục hồi nhanh và phát triển bền vững, trong bối cảnh Chính phủ xác định 4 "ổn định" gồm: Ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn, trong đó có cung cầu lao động; ổn định các loại thị trường tài chính, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản và giá cả, thị trường các loại hàng hóa phục vụ sản xuất và đời sống người dân; ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; ổn định và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Chúng ta tổ chức các hội nghị trên cơ sở quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và tổ chức thực hiện bài bản, lớp lang, đồng bộ.
Các ý kiến tại hội nghị đánh giá nói chung, thị trường lao động Việt Nam cơ bản phát triển tốt, ngày càng hoàn thiện, phục vụ tốt cho phát triển kinh tế và nâng cao đời sống người dân. Nhưng Việt Nam là nước đang phát triển, nền kinh tế trong quá trình chuyển đổi, có nhiều vấn đề đặt ra nhưng không thể giải quyết được ngay, đó cũng là tất yếu quá trình phát triển. Chúng ta cần tiếp tục đi tìm lời giải cho những câu hỏi vẫn đang trăn trở của nhiều người.
Đó là: Vì sao một lực lượng lớn lao động chất lượng cao được đào tạo ở nước ngoài không muốn quay về nước làm việc? Vì sao thời gian gần đây có một số lao động thuộc khu vực nhà nước có xu hướng chuyển dịch ra khu vực tư nhân? Vì sao lực lượng lao động xuất khẩu của nước ta thu nhập bình quân thường thấp hơn một số nước trong khu vực, cạnh tranh quốc tế còn thấp? Vì sao người dân một số địa phương phải xa gia đình, con nhỏ, bố mẹ già, thậm chí bỏ đất đai, ruộng vườn để đi làm ở nơi khác? Vì sao đời sống của một bộ phận công nhân ở các khu công nghiệp, thành phố lớn còn khó khăn, nhất là về vấn đề nhà ở? Vì sao vẫn còn những hiện tượng đình công ở một số khu công nghiệp? Vì sao kỹ năng người lao động Việt Nam còn thấp? Vì sao chúng ta cần Chiến lược phát triển thị trường lao động bền vững khi thời điểm dân số vàng còn đang hiện hữu?
Việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản của con người để có thể đảm bảo cuộc sống và sự phát triển toàn diện. Lao động - việc làm là vấn đề quan trọng, là một trong các cân đối lớn của nền kinh tế. Chúng ta đều biết, khi lao động trong nền kinh tế quá dư thừa, thiếu việc làm và tỷ lệ thất nghiệp cao có thể dẫn đến nhiều hệ lụy, thậm chí bất ổn xã hội, chính trị; ngược lại, nếu thiếu hụt lớn lao động, chất lượng lao động thấp… sẽ dẫn đến giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế và có các hệ lụy khác. Đây là hai mặt mà chúng ta phải cân nhắc, tính toán, xử lý hài hòa trong quá trình phát triển.
Chính sách chăm lo, tạo việc làm cho người lao động là vấn đề quan tâm của toàn xã hội. Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, ban hành nhiều chủ trương, chính sách tạo hành lang pháp lý thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm, phát triển thị trường lao động, nâng cao đời sống người dân. Đến nay, về cơ bản, thị trường lao động đã được hình thành và từng bước vận hành theo cơ chế thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cụ thể:
Thị trường lao động đã có những bước phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, ngày càng hội nhập, từng bước tiệm cận với thị trường lao động khu vực và thế giới.
- Thể chế thị trường lao động ngày càng hoàn thiện. Hệ thống thông tin thị trường từng bước đáp ứng được yêu cầu. Quan hệ lao động được thiết lập hài hòa, công bằng, hợp lý.
- Các định chế thị trường hỗ trợ kết nối cung cầu và các định chế an sinh xã hội cơ bản được hình thành tốt. Người lao động được tạo điều kiện tham gia BHXH, bảo hiểm thất nghiệp để chủ động khắc phục các rủi ro do mất hoặc giảm giờ làm việc, tai nạn lao động, mất sức lao động, nghỉ hưu…
Cung - cầu lao động được hình thành và kết nối trên các nguyên lý của thị trường, trong đó:
- Về cầu: Cùng với kinh tế tăng trưởng dương liên tục nhiều năm, cầu lao động không ngừng tăng cả về số lượng và chất lượng; cơ cấu ngành, nghề theo hướng hiện đại, từng bước tạo việc làm đầy đủ, bền vững hơn cho người lao động. Cơ hội việc làm tăng với việc hằng năm, thị trường lao động tạo thêm việc làm mới cho khoảng 1,6 triệu lao động.
- Về cung: hệ thống đào tạo, giáo dục nghề nghiệp phát triển được chuẩn hóa, hiện đại hóa từng bước, xã hội hóa và hội nhập quốc tế, gắn kết chặt chẽ hơn với nhu cầu của thị trường lao động để phát triển nguồn nhân lực về số lượng, liên thông giữa các cấp trình độ, từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
- Thị trường lao động trở thành động lực thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Theo số liệu gần đây, lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm trong quý II năm 2022 là 50,5 triệu, tăng 504,6 nghìn người (tăng 1,01%) so với quý trước và tăng 701.800 người (tương ứng tăng 1,41%) so với cùng kỳ năm trước.
Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến nhanh, phức tạp; cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động sâu rộng; đặc biệt là ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 làm bộc lộ rõ hơn các điểm yếu của thị trường lao động việc làm mà chúng ta cần có giải pháp khắc phục và trả lời những vấn đề thực tiễn đang đặt ra. Tôi cơ bản nhất trí với các hạn chế của thị trường lao động như đã nêu trong Báo cáo của Bộ và lưu ý thêm:
(1) Thị trường lao động chưa theo kịp được yêu cầu phát triển KTXH, chưa thích ứng đầy đủ được với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế.
(2) Thể chế phát triển thị trường lao động còn bất cập; chưa có cơ chế, chính sách đầy đủ về giao dịch việc làm, quản lý chất lượng thị trường, các quy định về tiêu chuẩn lao động và quan hệ lao động.
(3) Cân đối cung - cầu lao động chưa thật hiệu quả, bền vững dẫn tới chưa tiệm cận được năng suất tiềm năng (còn thiếu - thừa lao động cục bộ, làm việc không đúng ngành nghề đào tạo…). Hệ thống thông tin thị trường chưa thực sự hoàn chỉnh. Kết nối thị trường lao động trong nước và quốc tế còn yếu.
(4) Lưới an sinh xã hội có độ bao phủ thấp, chưa đạt hiệu quả cao, mới thực hiện vai trò giá đỡ cho một phần của thị trường lao động.
(5) Giáo dục - đào tạo chưa đáp ứng đầy đủ được yêu cầu nhu cầu phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là đào tạo nhân lực chất lượng cao, ngành nghề mới, kỹ năng nghề tương lai phục vụ phát triển KTXH và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hội nhập quốc tế. Việc gắn kết giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp, huy động nguồn lực đầu tư còn hạn chế. Cơ cấu thị trường lao động còn chưa hợp lý, chưa hiệu quả…
Những hạn chế trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó:
(1) Nhận thức của một số cấp uỷ, chính quyền, nhất là người đứng đầu một số cơ quan bộ, ngành, đơn vị về vai trò, tầm quan trọng phát triển thị trường lao động còn hạn chế; chưa thực sự chủ động có giải pháp hiệu quả để đảm bảo và phát triển thị trường lao động bền vững.
(2) Công tác lãnh đạo, chỉ đạo phát triển thị trường lao động chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của tình hình thực tế, của thị trường. Năng lực quản trị, vận hành thị trường lao động còn yếu. Thiếu cơ chế, chính sách đãi ngộ đủ hấp dẫn để giữ chân người lao động trong khu vực doanh nghiệp nhà nước, nhất là những bất cập về tiền lương.
(3) Hệ thống trung tâm, doanh nghiệp dịch vụ việc làm chưa phát huy tốt vai trò kết nối cung-cầu lao động, hỗ trợ người lao động, nhất là để vượt qua các cú sốc của thị trường. Nhiều doanh nghiệp, người sử dụng lao động chưa quan tâm đúng mức đến quyền lợi, đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động. Vai trò của các tổ chức công đoàn, đoàn thể trong bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính đáng cho người lao động còn những hạn chế nhất định.
(4) Chưa chú trọng kết nối thị trường lao động trong nước với thị trường lao động quốc tế một cách liên thông, tổng thể, bền vững, ổn định. Công tác thông tin, truyền thông đến người lao động còn hạn chế, nhiều người lao động chưa hiểu rõ, hiểu hết quyền và lợi ích, nghĩa vụ, trách nhiệm của mình.
(5) Chưa thực sự quan tâm phát triển cơ sở dữ liệu thị trường lao động đầy đủ; công tác thống kê cập nhật phục vụ phân tích, dự báo và chỉ đạo điều hành về tình hình lao động còn hạn chế.
Trong giai đoạn phát triển mới, chúng ta có cả những thời cơ, vận hội đan xen khó khăn, thách thức; nhưng khó khăn, thách thức nhiều hơn. Chính phủ xác định ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; điều hành hài hòa, hợp lý, kết hợp chặt chẽ, hiệu quả, hỗ trợ lẫn nhau giữa các chính sách tiền tệ - tài khóa; triển khai Chương trình phục hồi, phát triển KTXH (với quy mô 340 nghìn tỷ - khoảng 4% GDP), tập trung vào y tế, an sinh xã hội, hỗ trợ doanh nghiệp và đầu tư cơ sở hạ tầng; cải cách hành chính, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, an toàn, minh bạch. Những điều đó góp phần thu hút đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm để giảm tỷ lệ thất nghiệp, thúc đẩy thị trường lao động phát triển.
Chúng ta kiên định xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất và hiệu quả, muốn vậy phải dựa vào con người là chính. Chúng ta muốn có những ngành công nghiệp phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, sở hữu những phát minh, sáng chế mới, những công nghệ tiên tiến nhất thì chúng ta phải đào tạo thường xuyên, đầy đủ và có đột phá để có được lao động chất lượng cao, làm chủ được công nghệ. Cần có cơ chế đào tạo, cải cách tiền lương, tạo môi trường làm việc tốt để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trong khu vực nhà nước, thu hút, giữ chân những lao động có trình độ, kỹ năng tay nghề cao để chính họ trở thành nguồn lực, động lực trong mỗi cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, thúc đẩy phát triển KTXH nhanh, bền vững.
Về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển thị trường lao động thời gian tới, tôi cơ bản nhất trí với Báo cáo và ý kiến phát biểu của các đồng chí dự Hội nghị. Tôi nhấn mạnh một số giải pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về thị trường lao động, tuân thủ quy luật các quy luật của kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, coi lao động là hàng hóa đặc biệt để có cơ chế, chính sách phù hợp. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật đồng bộ, thống nhất để thị trường lao động phát triển theo hướng linh hoạt, hiện đại, đầy đủ, bền vững, hiệu quả, hội nhập quốc tế, nhằm giải phóng triệt để sức sản xuất, tập trung phát triển lao động có kỹ năng, thúc đẩy tạo việc làm bền vững, có thu nhập cao. Tiếp tục nội luật hóa và quy định cụ thể các tiêu chuẩn lao động phù hợp với điều kiện của Việt Nam và tiêu chuẩn quốc tế (các công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), các FTA thế hệ mới) mà Việt Nam cam kết và phê chuẩn. Thúc đẩy hợp tác quốc tế, tăng cường liên kết thị trường lao động trong và ngoài nước.
Phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động, hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm, doanh nghiệp dịch vụ việc làm, hệ thống giáo dục nghề nghiệp và lưới an sinh xã hội...
Thứ hai, nắm bắt nhu cầu, phát triển thị trường lao động đúng hướng, tập trung vào các lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm đang là ưu tiên hiện nay như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, ứng phó biến đổi khí hậu… Tập trung xây dựng hệ thống quản trị thị trường lao động hiện đại, minh bạch để mỗi người lao động từ khi tham gia đến khi rời thị trường lao động được quản trị minh bạch, thống nhất, tạo điều kiện cho tham gia các hoạt động giao dịch việc làm, tiếp cận thông tin về thị trường lao động việc làm; để doanh nghiệp dễ tiếp cận cung lao động, nâng cao chất lượng lao động, cơ sở đào tạo có chiến lược, kế hoạch đào tạo, cung ứng kịp thời, sát với nhu cầu thực tiễn. Đẩy mạnh đầu tư số hóa quản trị lao động việc làm kết nối với số hóa quản lý dân cư.
Thứ ba, chú trọng đầu tư cả về cơ chế chính sách, nguồn lực để xây dựng hệ thống thông tin và dự báo thị trường lao động đa tầng từ địa phương cấp tỉnh, cấp vùng tới toàn quốc, đa lĩnh vực theo ngành nghề, có các cấp trình độ khác nhau. Hệ thống thông tin và dự báo hướng tới đối tượng người sử dụng là các cơ quan quản lý nhà nước các cấp, doanh nghiệp và nhất là người lao động và người sử dụng lao động. Chính sách phải dựa trên cơ sở dữ liệu hiện tại và dự báo tương lai.
Nhiều chỉ số của thị trường lao động như tỉ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm, số việc làm được tạo ra… là những chỉ số kinh tế vĩ mô rất quan trọng trong việc chỉ đạo, điều hành KTXH.
Thứ tư, đẩy mạnh xây dựng chính sách việc làm trên nguyên tắc có tính dự báo, tầm nhìn chiến lược, chủ động, phù hợp với cơ chế thị trường, xây dựng nhiêm vụ phù hợp, khả thi, hiệu quả cả ngắn hạn và dài hạn, đa dạng hoá các nguồn tín dụng để thúc đẩy việc tạo việc làm mới, việc làm sáng tạo, chất lượng cao, việc làm bền vững, việc làm xanh, phục vụ chuyển đổi số, chuyển đổi năng lượng, ứng phó biến đổi khí hậu, việc làm cho đối tượng yếu thế, vùng sâu vùng xa.
Thứ năm, cần quan tâm tới việc dịch chuyển lao động, việc làm theo địa lý, địa bàn, đảm bảo có cơ cấu phân bổ lao động việc làm hợp lý trên toàn quốc; có cơ chế khuyến khích hỗ trợ dịch chuyển lao động, hỗ trợ các địa bàn còn yếu kém; đẩy mạnh liên kết thị trường việc làm giữa các vùng trong nước, hình thành cơ chế kết nối cung cầu tự động giữa thị trường trong và ngoài nước. Tạo việc làm ở khu vực nông thôn, miền núi để người dân có thể làm việc tại quê hương với mức thu nhập ổn định, để người lao động hạn chế phải xa quê hương. Triển khai chính sách hỗ trợ nhà ở cho công nhân, người lao động ở khu công nghiệp và các thành phố lớn. Về việc này, Chính phủ đã tổ chức Hội nghị về nhà ở xã hội với mục tiêu xây dựng ít nhất 01 triệu căn nhà ở xã hội cho công nhân, người thu nhập thấp đến năm 2030.
Thứ sáu, đổi mới toàn diện hệ thống đào tạo, giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, hiệu quả để nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tận dụng thời cơ dân số vàng, phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đáp ứng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đẩy mạnh huy động các nguồn lực đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Chú trọng đào tạo những kỹ năng ngoại ngữ, tính kỷ luật, kỷ cương… để hội nhập với thị trường lao động thế giới.
Thứ bảy, thực hiện các văn bản, quy định liên quan tới thị trường lao động, Quyết định số 522/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về công tác hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau trung học, tạo điều kiện thuận lợi để các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tổ chức giảng dạy chương trình giáo dục thường xuyên cấp trung học phổ thông để đẩy mạnh phân luồng và bảo đảm quyền lợi của học sinh vừa được học nghề, vừa được học văn hóa ngay tại cơ sở giáo dục nghề nghiệp, nhất là đối với con em công nhân lao động, chú trọng đào tạo cả kỹ năng nghề và kỹ năng sống. Trong nhiệm kỳ này, đang dành khoảng 2.000 tỷ đồng cho việc đào tạo, dạy nghề và dự kiến sẽ bố trí thêm. Chủ trương của chúng ta là không tiếc kinh phí cho việc này, nhưng sử dụng trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả.
Thứ tám, rà soát, đánh giá sắp xếp tổ chức, đầu tư nâng cao năng lực của hệ thống đào tạo, giáo dục nghề nghiệp, nhất là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng, đề xuất mô hình liên kết vùng, xây dựng các trung tâm đào tạo vùng, trung tâm đào tạo quốc gia theo vùng kinh tế trọng điểm.
Thị trường lao động phải phục vụ đắc lực, hiệu quả việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế thực chất, sâu rộng, hiệu quả. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu từng căn dặn: "Chúng ta là những người lao động làm chủ nước nhà. Muốn làm chủ được tốt, phải có năng lực làm chủ. Chúng ta học tập chính là để có đủ năng lực làm chủ, có đủ năng lực tổ chức cuộc sống mới - trước hết là tổ chức nền sản xuất mới. Bởi vậy, ý thức làm chủ không phải chỉ tỏ rõ ở tinh thần hăng hái lao động mà còn phải tỏ rõ ở tinh thần say mê học tập để không ngừng nâng cao năng lực làm chủ của mình".
Thứ chín, tập trung tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong kết nối giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp; xây dựng chính sách ưu đãi cho học tập, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, đánh giá công nhận trình độ kỹ năng cho người lao động. Đẩy mạnh đào tạo, đào tạo lại, đào tạo bổ sung, đào tạo tại doanh nghiệp để thu hút hiệu quả lao động tại chỗ nhằm giải quyết triệt để vấn đề thiếu hụt nhân lực cục bộ, vấn đề đứt gãy lao động phục vụ phục hồi nhanh, phát triển bền vững KTXH.
Nhân dịp này, tôi trân trọng cảm ơn và mong muốn các cơ quan, tổ chức quốc tế tiếp tục hỗ trợ về tài chính, nâng cao năng lực, chia sẻ kinh nghiệm phát triển, quản lý thị trường lao động và nguồn nhân lực của Việt Nam.
Sau Hội nghị hôm nay, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các bộ, ban, ngành, với các địa phương, các hiệp hội, doanh nghiệp và tổ chức tiếp thu đầy đủ, nghiêm túc các ý kiến của các đại biểu dự Hội nghị; nghiên cứu, tham mưu, sớm trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành văn bản chỉ đạo về tập trung nguồn lực phát triển thị trường lao động đúng hướng, linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững, hội nhập.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng: Hội nghị có ý nghĩa rất quan trọng, bởi lẽ lao động và phát triển thị trường lao động đóng vai trò quan trọng, thậm chí là quyết định đối với việc phát triển kinh tế của một quốc gia. Ngược lại, phát triển kinh tế tốt cũng là điều kiện để phát triển thị trường lao động bền vững.
Để phát triển thị trường lao động cần đồng bộ nhiều chính sách, tiếp cận trên nhiều góc độ chứ không phải riêng lẻ của một bộ ngành nào. Ví dụ, từ phía giáo dục là đào tạo nghề; đảm bảo các điều kiện để người lao động yên tâm làm việc; giải pháp chính sách về nhà ở; cân đối cung cầu lao động… là những giải pháp toàn diện để phát triển thị trường lao động.
Từ góc độ hoạt động ngân hàng, chúng tôi cũng triển khai một số khía cạnh.
Thứ nhất, bảo đảm thu nhập thực tế của người lao động rất quan trọng. Với vai trò điều hành chính sách tiền tệ, NHNN đã triển khai rất nhiều giải pháp để kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Chúng tôi cho rằng, lạm phát cao chính là một loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập của người lao động, làm ảnh hưởng đến đời sống của họ.
Vừa qua, tại Hội nghị gồm 63 ngân hàng lớn trên thế giới, các Thống đốc của các ngân hàng trung ương rất quan tâm đến những khó khăn trên thị trường lao động trong bối cảnh lạm phát cao; đánh giá nhu cầu tăng lương của người lao động trong bối cảnh lạm phát cao sẽ là một khó khăn không nhỏ của thị trường lao động.
Trong bối cảnh DN gặp khó khăn do đại dịch COVID-19, NHNN đã thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ, tín dụng tính đến ngày 15/8 tăng 9,62 %, đóng góp rất nhiều cho việc phục hồi sản xuất kinh doanh của DN. NHNN cũng hỗ trợ tái cấp vốn cho DN để trả lương cho người lao động, giúp cả DN và người lao động vượt qua thời điểm khó khăn.
NHCSXH cũng triển khai 23 chương trình cho vay đối với hộ cận ngheo, thoát nghèo, nhà ở, xuất khẩu lao động… mang lại hiệu quả cao.
Tại Hội nghị Thủ tướng đối thoại với công nhân tại Bắc Giang vừa qua, 2 công ty tài chính đã cam kết mỗi công ty giành 10.000 tỷ đồng cho công nhân trong các KCN vay tiêu dùng. NHNN đang phối hợp với các cơ quan liên qua để triển khai, nếu làm được sẽ tiến hành nhân rộng hình thức cho vay này.
NHNH cho rằng, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh việc đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, trong đó có việc đẩy mạnh cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và phát triển nguồn nhân lực, cơ cấu theo từng khu vực phù hợp. Với ngành ngân hàng, lực lượng lao động chắc chắn không sử dụng rộng rãi, phổ thông mà đòi hỏi chất lượng rất cao, rất "tinh".
Thời gian tới, các Nghị quyết của Chính phủ, các chiến lược phát triển thị trường lao động cần làm rõ cơ cấu thị trường lao động theo khu vực, khu vực nào cần lao động chất lượng cao, khu vực nào cần lao động giản đơn.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng: Phát triển thị trường lao động luôn được Đảng, Nhà nước coi là nhiệm vụ hết sức quan trọng, đột phá, chiến lược. Bộ KH&ĐT cũng xác định việc hoàn thiện thể chế phát triển thị trường lao động là mảnh ghép hết sức quan trọng xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hội nghị hôm nay hết sức có ý nghĩa cả trong ngắn hạn để góp phần thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế xã hội, cả trong dài hạn để thực hiện mục tiêu Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Vừa qua, Việt Nam đã nỗ lực cải cách để cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư, phát triển doanh nghiệp, phát triển thị trường lao động, đáp ứng cung cầu lao động. Về các kết quả, hạn chế, bất cập, nguyên nhân, chúng tôi cơ bản đồng tình với báo cáo của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, xin bổ sung thêm một số nội dung.
Về hạn chế của thị trường lao động, việc phân bố lao động không đồng đều giữa các vùng miền, địa phương; chất lượng lao động thấp, chỉ có hơn 26% lao động qua đào tạo, có chứng chỉ, nhất là lao động quản lý, tay nghề cao rất thiếu, không đáp ứng cho thu hút đầu tư FDI công nghệ cao; năng suất lao động rất thấp, theo các đánh giá quốc tế.
Cùng với đó, trong giai đoạn hiện nay có tình trạng mất việc làm, thiếu hụt lao động cục bộ một số địa phương và lĩnh vực.
Ngoài ra, tốc độ già hóa dân số nhanh hơn dự báo, trước đây Ngân hàng Thế giới dự báo Việt Nam bắt đầu già hóa dân số sau năm 2030 nhưng hiện nay đã diễn ra, làm giảm lực lượng lao động. Nếu chúng ta không tranh thủ, tăng tốc nhanh, với chính sách mạnh hơn để tận dụng thời cơ dân số vàng thì chúng ta "chưa giàu đã già".
Về giải pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư kiến nghị 5 giải pháp ngắn hạn và 6 giải pháp dài hạn.
Cụ thể, về ngắn hạn: Theo dõi, nắm bắt nhu cầu lao động, đào tạo, bồi dưỡng nhân lực, giải quyết việc làm, bảo đảm an sinh xã hội, cung ứng lao động cho quá trình phục hồi phát triển; phát triển hệ thống thông tin và dự báo thị trường lao động, làm tốt công tác hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau trung học; giải quyết vấn đề khan hiếm lao động cục bộ; thực hiện tốt các quy định hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho doanh nghiệp nhỏ và vừa theo Nghị định 80/2021/NĐ-CP; tiếp tục triển khai hỗ trợ người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 để phục hồi sản xuất và kinh doanh sau đại dịch.
Tiếp theo là 6 nhóm giải pháp dài hạn: Hỗ trợ doanh nghiệp tái cơ cấu lao động trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đáp ứng yêu cầu tình hình mới, huy động mạng lưới trí thức người Việt trong và ngoài nước;
Xây dựng chiến lược quốc gia phát triển nguồn nhân lực, thống nhất đầu mối quản lý đào tạo nhân lực, đẩy mạnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế;
Đẩy mạnh xã hội hóa, nâng cao năng lực tự chủ của các cơ sở đào tạo nhân lực, đa dạng hóa các hình thức liên kết đào tạo, nghiên cứu giữa các cơ sở đào tạo, hiệp hội, doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách để thu hút đầu tư, giải quyết việc làm;
Có các chính sách để các cơ sở kinh tế phi chính thức chuyển sang khu vực chính thức;
Đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số và công nghệ thông tin để kết nối cung cầu lao động, đáp ứng nhu cầu chuyển đổi số, xây dựng và phát triển kinh tế số, xã hội số.
Đại diện Tổ chức Hợp tác phát triển Đức (GIZ), TS Juergen Hartwig: Chương trình Việt-Đức hỗ trợ phát triển thị trường lao động và giáo dục nghề nghiệp để Việt Nam phục hồi và tăng trưởng kinh tế bền vững do Bộ Hợp tác kinh tế của Đức và các đối tác Việt Nam thực hiện.
Cải thiện thị trường lao động đòi hỏi cách tiếp cận tích hợp. Cách tiếp cận của chúng tôi như sau: Thứ nhất, các chính sách của thị trường dựa trên bằng chứng và hướng tới tương lai. Thứ hai, dịch vụ thông tin việc làm và thị trường lao động để hỗ trợ cho cung và cầu. Thứ ba, cải thiện về chất và lượng của thị trường lao động qua đào tạo và giáo dục.
Việt Nam đang trở thành một quốc gia có triển vọng phát triển rất cao trong khu vực và việc Việt Nam có thể thực hiện được điều đó hay không phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của người lao động. Nguồn nhân lực là yếu tố then chốt cho năng suất lao động của Việt Nam. Người lao động tạo ra thu nhập và lương thì xác định phân phối thu nhập. Cả hai đều quyết định phúc lợi của người lao động.
Cơ cấu thị trường đang thay đổi mạnh mẽ với tốc độ nhanh, ngày càng yêu cầu nhiều loại kỹ năng hơn. Do đó, Việt Nam phải có những chính sách linh hoạt, hướng tới tương lai và dựa trên bằng chứng để có thể sớm phát triển được thị trường lao động một cách phù hợp.
Một số ưu tiên và khuyến nghị của chúng tôi như sau:
Thứ nhất, cải thiện quy định về việc làm để cho phép Chính phủ thiết kế, thực hiện, đánh giá các chính sách và chiến lược mới, hướng tới người lao động, người tuyển dụng lao động và người thất nghiệp.
Thứ hai, bằng chứng là điều quan trọng, quý vị cần phải hiểu điều gì có tác dụng và điều gì không có tác dụng.
Thứ ba, quý vị cần xây dựng kỹ năng cơ bản và kỹ năng số cho những nhà hoạch định chính sách để phân tích hiện trạng và theo đó có những chính sách phù hợp.
Thứ tư, cải thiện và số hóa thị trường việc làm để có những chính sách về thị trường lao động và kỹ năng hiệu quả.
Thứ năm, hiện đại hóa và cải thiện các dịch vụ việc làm công.
Thứ sáu, nâng cao chất lượng của lực lượng lao động thông qua cải thiện chất lượng giáo dục dạy nghề, gồm cả đào tạo ban đầu và suốt đời.
Chương trình hợp tác Việc–Đức đổi mới giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam nhằm phát triển lực lượng lao động tay nghề cao của chúng tôi đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ với Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội. Việt Nam đã có những chương trình cải cách hệ thống lao động của mình và có cách tiếp cận mới để thúc đẩy hệ thống linh hoạt trong cộng đồng. Chương trình này hoàn toàn phù hợp với nhu cầu, yêu cầu của phía Việt Nam và được các trường đại học đối tác của chúng tôi thực hiện tại giáo dục đại học. Chúng tôi đang đào tạo khoảng 5.000 người lao động để có thể giúp họ vượt qua những tác động của dịch COVID-19. Các trường đại học và doanh nghiệp, các đối tác của chúng tôi rất đa ngành nghề và thể hiện sự hiệu quả trong cách huấn luyện của chúng tôi tại Việt Nam. Chúng tôi đã hợp tác với 11 đối tác từ Bắc vào Nam để cung cấp nhân lực cho các ngành nghề như tự động hóa, điện tử, xử lý nước, năng lượng tái tạo…
Kinh nghiệm cho thấy rằng hợp tác được thể chế hóa giữa Chính phủ, nhà tuyển dụng lao động và các trường đào tạo sẽ đóng vai trò rất quan trọng. Hợp tác giữa các doanh nghiệp và các tổ chức chuyên ngành, trong đó có VCCI, các cơ quan Chính phủ là điều cần thiết để có thể xây dựng chính sách chuẩn mực giúp các công ty có thể huấn luyện, đào tạo tại chỗ và nâng cao chất lượng người lao động.
Chúng tôi cũng ủng hộ việc thiết lập báo cáo chuyên ngành về tình hình lao động tại cấp tỉnh và quốc gia như VCCI đã nói.
Khuyến nghị của chúng tôi, để đạt được một hệ thống phù hợp là:
Thứ nhất, tiếp tục đầu tư vào các trường đại học chất lượng cao phù hợp chuẩn mực quốc tế phục vụ yêu cầu của công nghiệp 4.0, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh trong ngành công nghiệp.
Thứ hai, tăng cường hợp tác với doanh nghiệp thông qua các hội đồng kỹ năng tại các cấp khác nhau và có cách tiếp cận toàn quốc về huấn luyện toàn diện.
Thứ ba, cung cấp học bổng và giảm học phí cho các nhóm dễ bị tổn thương và tăng cường các chương trình đào tạo, đào tạo lại và tăng cường chuyên môn để đạt được chỉ tiêu 35-40% người lao động có kỹ năng đến năm 2030.
Thứ tư, tạo điều kiện cho những người tốt nghiệp trung cấp và tốt nghiệp THPT được theo học trình độ cao đẳng thông qua mô hình 9+ (lồng ghép nội dung giáo dục phổ thông vào chương trình cao đẳng).
Chúng tôi sẽ tiếp tục hợp tác với quý vị trong việc đào tạo nhân lực.
Chủ tịch UBND Cần Thơ Trần Việt Trường: Hiện nay, mạng lưới giáo dục của Cần Thơ có 6 trường đại học, 1 phân hiệu đại học, 14 trường cao đẳng, hơn 72 cơ sở giáo dục nghề nghiệp với số lượng giáo viên và giảng viên là hơn 6.000. Quy mô đào tạo các trường cao đẳng là hơn 6.000 sinh viên, quy mô đào tạo của các trường đại học là hơn 80.000 sinh viên. Mỗi năm có khoảng hơn 20.000 sinh viên ra trường.
TP Cần Thơ được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội quan tâm đầu tư Trường Cao đẳng Nghề của Cần Thơ là một trong 45 trường đạt chất lượng cao của cả nước.
Trong 8 tháng đầu năm 2022, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã tuyển sinh, đào tạo cho 36.382 người, đạt 80,85% kế hoạch, tăng 28,89% so với cùng kỳ năm 2021.
Các Trung tâm dịch vụ việc làm của Thành phố tư vấn bằng nhiều hình thức đa dạng như: Người lao động đến liên hệ trực tiếp tại trung tâm, gián tiếp qua email, điện thoại; nhóm quản trị nhân sự Cần Thơ, mạng xã hội, Cổng thông tin việc làm Cần Thơ và trực tiếp tại Ngày Gặp gỡ tuyển dụng vào thứ hai hằng tuần.
8 tháng đầu năm, Cần Thơ đã thực hiện tư vấn việc làm, chính sách việc làm, học nghề cho 102.000 người, giới thiệu việc làm trong và ngoài nước cho hơn 13.000 lượt người. Tiếp tục duy trì phiên giao dịch việc làm định kỳ. Tăng cường mở rộng các phiên giao dịch việc làm, tổ chức phiên giao dịch trực tuyến tại khu vực Tây sông Hậu, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh, thành phố lân cận. Phối hợp với các trường đại học, cao đẳng, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tổ chức Ngày hội Việc làm, tư vấn kết nối rộng rãi cho các doanh nghiệp, người lao động, các em học sinh, sinh viên có cơ hội tuyển dụng lao động, tìm kiếm việc làm và định hướng nghề nghiệp trong tương lai.
Từ đầu năm đến nay, thành phố Cần Thơ đã giải quyết việc làm cho hơn 41.387 lao động, trong đó có 207 lao động nước ngoài, đạt tỉ lệ 82,12% so với kế hoạch, tăng 78,08% so với cùng kỳ.
Thực hiện các chính sách hỗ trợ người lao động gặp khó khăn trong đại dịch COVID-19, bảo đảm an sinh xã hội; thực hiện Nghị quyết số 68 của Chính phủ, đã chi hỗ trợ cho 3.946 người sử dụng lao động với 706.208 lượt người với tổng kinh phí hơn 1.327 tỷ đồng, đạt 98,56% so với số lượng được duyệt, trong đó có 1,44% danh sách trùng đối tượng.
Kết quả chính sách hỗ trợ nhà ở cho người lao động theo Quyết định số 08 của Thủ tướng Chính phủ, tính đến ngày 19/8/2022, toàn TP. Cần Thơ có 1.600 lượt doanh nghiệp hỗ trợ cho 7.526 lượt người lao động với kinh phí hơn 30 tỷ 100 triệu đồng. Thành phố đã phê duyệt 1.062 lượt doanh nghiệp hỗ trợ cho 46.329 lượt người lao động, với kinh phí 23 tỷ 905 triệu đồng
Bên cạnh đó, TP. Cần Thơ đang xây dựng kế hoạch nhu cầu vay vốn tín dụng chính sách. Tổng nhu cầu vay vốn tín dụng ưu đãi trong 2 năm 2022,2023 của thành phố là 475 tỷ đồng, trong đó năm 2022 là 211 tỷ đồng, năm 2023 là 264 tỷ đồng.
Từ những kết quả trong thời gian qua cũng như nhu cầu phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững, TP. Cần Thơ sẽ thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm:
- Tiếp tục triển khai Chiến lược giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021-2030; Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp thời kỳ 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 11 của Chính phủ về chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, Nghị quyết số 43 của Quốc hội về chính sách tài khóa tiền tệ hỗ trợ phục hồi và phát triển thị trường lao động, Quyết định số 176 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành chương trình hỗ trợ thị trường lao động đến năm 2030, phù hợp với điều kiện của Thành phố.
- Triển khai phối hợp với VCCI và các Hiệp hội DN trên địa bàn Thành phố nắm chặt nhu cầu thị trường lao động để có đổi mới nâng cao hiệu quả hoat động của các đơn vị dịch vụ việc làm và nâng cao chất lượng các sàn giao dịch việc làm kể cả trực tiếp và trực tuyến.
- Rà soát, đánh giá, sắp xếp lại tổ chức đầu tư nâng cao năng lực của hệ thống giáo dục nghề nghiệp, nhất là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao có tay nghề.
- Ban hành kế hoạch xây dựng cơ sở dữ liệu về thị trường lao động; việc tìm người, người tìm việc của thành phố Cần Thơ nhằm phục vụ kịp thời cho công tác quản lý nhà nước về lao động việc làm, đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế-xã hội và chương trình dân số quốc gia.
Phó Chủ tịch UBND TPHCM Dương Anh Đức: TPHCM là địa phương có quy mô về lực lượng lao động rất lớn với gần 5 triệu người lao động và trong 7 tháng đầu năm 2022 có những tín hiệu tích cực đó là có hơn 430.000 người lao động tăng lên so với năm 2021.
Để bảo đảm nguồn nhân lực phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh sau dịch, UBND Thành phố đã ban hành Quyết định số 132 về chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội TPHCM giai đoạn 2022-2025, trong đó có đề ra các giải pháp về kết nối cung cầu lao động để bảo đảm nguồn lực cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, triển khai các hoạt động giáo dục gắn với