Ơi con sông quê hương

Vũ Tiến Hà

19/08/2017 06:15 GMT +7

Có mấy ai biết được, để có dòng sông quê mênh mang ấy, sông Bôi phải chắt chiu từng hạt nước từ nơi thượng nguồn.

Từ những thùy lá rừng cổ Thượng Tiến, hạt mưa như từ hồng hoang rớt xuống, rễ giữ lại một chút nước rồi nhường phần nhiều cho những dòng suối Đáy, Rộc Vá, Lồi, Cheo, Cả, Khang, Bãi Lau… Nước cứ thế theo dòng, len lỏi qua dãy núi đá vôi sừng sững của Mường Động để về đến quê tôi hiền hòa đến thế.

Hè oi ả, trong ký ức tuổi thơ tôi, lũ trẻ trâu thường rủ nhau tắm mát ở nơi bến sông quê này - nơi có cây sung già hằng mấy trăm năm tuổi, gốc của nó to như một gian nhà phải đến cả chục người nắm tay nhau ôm mới hết. Những cái rễ của nó trồi lên mặt đất và những cành lá to quanh năm xum xuê tỏa bóng mát ra gần đến giữa mặt sông, trở thành chiếc cầu nhảy. Mỗi khi tắm, lũ trẻ chúng tôi thường trèo lên đó nhảy ùm xuống dòng nước mát. Chiều về, tôi lại ngồi trên cành cây ấy, nhưng là để ngắm những chiếc thuyền chở đầy cát vàng cập bến. Cát sông bôi vàng lắm, sỏi thì trắng, chúng lấp lánh dưới ánh nắng như nheo mắt cười để rồi từ đây tỏa đi khắp vùng hạ du này, xây lên những ngôi nhà, những chiếc cầu nối đôi bờ thương nhớ.

Mỗi buổi sớm mai, âm thanh từ những chiếc thuyền nhỏ bé, những căn nhà di động của các gia đình thuyền chài vọng vào như đánh thức ngôi làng tôi. Cái mớ âm thanh hỗn tạp của nhịp gõ thuyền, mái chèo khua nước, tiếng cá quẫy ấy đã theo tôi suốt những năm tháng của tuổi thơ.

Hằng năm, khi mùa lũ về, dòng sông quê hiền hòa bỗng nổi cơn thịnh nộ. Dòng nước đục ngàu tràn lên những cánh đồng ven sông, mặt sông ngàu đỏ, sôi lên sùng sục, cuốn theo tất cả những gì trên đường đi của nó. Có năm lũ từ thượng nguồn đổ về cuốn theo cả nhà cửa, trâu bò của người dân. Chiếc cầu phao làm bằng tre dùng để đi lại giữa hai bên bờ sông bị lũ cuốn đứt phăng, thuyền bè đều phải neo đậu vào cây sung già và những nơi nước không chảy siết, lũ trẻ con chúng tôi tụ tập nhau ra đứng bên bờ sông xem người lớn vớt củi, kéo vó bắt cá. Sau khi lũ giữ cướp đi nhiều thứ của con người nhưng cũng mang đi sâu bệnh làm hại mùa màng và bồi đắp cho các bãi một lượng phù bội tụ cho mùa sau.

Thu về có lẽ là khi con sông quê hương tôi đẹp nhất, dòng nước lững lờ trôi nhè nhẹ như sợ làm đau đôi bờ vì mới qua một mùa dông bão. Đây cũng là mùa những người dân chài bắt đầu vào một vụ cào hến. Những con hến ở dòng sông quê tôi không to lắm nhưng vỏ mỏng và béo vàng tươi. Có lẽ do sống dưới tầng đáy sông, nơi chỉ có cát vàng óng ả nên loài nhuyễn thể này có được hương vị riêng có của mình. Thế nên với tôi, món canh hến do mẹ tôi nấu vẫn luôn in đậm trong tôi qua bao năm tháng. Chị tôi những ngày tháng cuối đời nằm trên giường bệnh không ước ao điều gì mà chỉ thèm được ăn một bữa cơm có canh hến quê tôi nấu riêu cho thỏa nối nhớ quê nhà trước khi về với tổ tiên ở nơi quê chồng.

Con sông quê hương cũng là nơi báo hiệu mùa xuân về khi đôi bờ sông xuất hiện những đám cỏ non xanh rì . Đàn én nhỏ bấy lâu vẫn ngủ đông trong các hang núi phía xa lại rúi rít bay lượn có khi xà xuống sát mặt sông. Rặng tre già bên sông cũng trút bỏ hết những chiếc lá cuối cùng để rồi khoác trên mình tấm khăn quàng màu xanh tơ mới. Sông mùa này phẳng lặng như một tấm gương soi cảnh mây trời cùng bóng núi.

Nhưng dù là mùa nào, con sông quê hương cũng luôn gắn bó với nhịp sống của làng quê, trên bến dưới thuyền, tiếng lộc cộc cùng hòa trong tiếng nói cười rộn rang và tấp nập các chợ nơi bến sông...