Dân số Việt Nam 100 triệu: Nguy cơ "thừa nam thiếu nữ", cần "nhập khẩu" hàng triệu cô dâu (Kỳ II)

Diệu Linh - Gia Khiêm Thứ ba, ngày 25/04/2023 06:00 AM (GMT+7)
Một trong những thách thức của dân số 100 triệu hiện nay của Việt Nam là mất cân bằng giới tính khi sinh. 15-20 năm nữa, chúng ta đối diện với tương lai "thừa nam, thiếu nữ" phải "nhập khẩu" cô dâu như Ấn Độ, Trung Quốc.
Bình luận 0

Tình trạng "thừa nam thiếu nữ" lan rộng

Theo báo cáo của Bộ Y tế, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) ở Việt Nam tăng nhanh, đã ở mức nghiêm trọng, dẫn đến nguy cơ "thừa nam, thiếu nữ" trong vài chục năm tới. 

Năm 2022, tỷ số này ở nước ta là 113,7 (không đạt mục tiêu đề ra là 111,4). Thậm chí, một số địa phương có tỷ số MCBGTKS ở mức rất cao như Nghệ An (116,6), Sơn La (117)… Việt Nam đang là quốc gia có tỷ số MCBGTKS cao thứ 3 ở khu vực châu Á, sau Trung Quốc và Ấn Độ. 

Vấn đề MCBGTKS khi sinh ở Việt Nam đã được đặt ra từ năm 2006, khi tỷ số giới tính khi sinh tăng lên 109,8 bé trái/100 bé gái.

Cho dù ngành dân số có nhiều nỗ lực và đưa ra các giải pháp để ngăn chặn tình trạng này nhưng việc MCBGTKS vẫn liên tục gia tăng qua các năm, có giảm cũng chỉ giảm nhẹ rồi lại giao động ở mức 112-114 trẻ gái/100 trẻ nam.

Dân số Việt Nam 100 triệu (Kỳ II): Nguy cơ "thừa nam thiếu nữ", cần "nhập khẩu" hàng triệu cô dâu - Ảnh 1.

MCBGTKS ở Việt Nam tuy xuất hiện muộn hơn một số nước nhưng tăng nhanh và lan rộng, xảy ra ở cả thành thị và nông thôn. Ảnh minh họa Tào Nga

Ông Phạm Vũ Hoàng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số - kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế) nhận định, MCBGTKS ở Việt Nam tuy xuất hiện muộn hơn một số nước nhưng tăng nhanh và lan rộng, xảy ra ở cả thành thị và nông thôn.

Xét ở phạm vi vùng kinh tế - xã hội, năm 2006 có 3/6 vùng MCBGTKS thì đến năm 2021 cả 6/6 vùng đã bị MCBGTKS ở cả thành thị và nông thôn. Ngay như tại Tây Nguyên, năm 2020 chưa bị MCBGTKS, tỷ số giới tính khi sinh vẫn ở mức cân bằng (106/100), nhưng đến năm 2021 đã tăng lên mức 108/100, cũng bị mất cân bằng. 

"Việt Nam đang bị mất cân bằng giới tính khi sinh, hiện tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam đang ở mức cao hơn nhiều so với mức cân bằng tự nhiên là 105- 106 bé trai/100 bé gái".

Ông Phạm Vũ Hoàng

Tình trạng MCBGTKS đặc biệt cao ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc (114,1) tiếp đến là Đồng bằng sông Hồng (110,6). Đặc biệt có 6 tỉnh có tỷ số MCBGTKS rất cao trên 120 bé trai/100 bé gái như: Bắc Giang (126,8/100), Hà Nam (125,3/100), Hưng Yên (123,6/100), Sơn La (121,8/100), Hòa Bình (121,8/100), Bà Rịa - Vũng Tàu (121,1/100).

Lựa chọn giới tính từ lần sinh đầu tiên

Phân tích kết quả điều tra dân số tại Việt Nam, các chuyên gia dân số nhận định, MCBGTKS Việt Nam có nhiều điều khác biệt so với nhiều nước châu Á.

Thông thường người ta sẽ cho rằng bà mẹ trình độ văn hóa thấp thì sẽ có tư tưởng phong kiến nặng nề, trọng nam khinh nữ, muốn đẻ con trai cho nhà chồng để nối dõi, thờ phụng tổ tiên nhà chồng. Tuy nhiên, ở Việt Nam lại trái ngược hoàn toàn.  

"Việt Nam là một trong những quốc gia hiếm hoi trên thế giới có sự chênh lệch giới tính khi sinh ngay từ đứa con đầu tiên (110/100), tức là các cặp vợ chồng đã nghĩ đến lựa chọn giới tính khi sinh ngay ở lần sinh đầu", ông Hoàng chia sẻ.

Dân số Việt Nam 100 triệu (Kỳ II): Nguy cơ "thừa nam thiếu nữ", cần "nhập khẩu" hàng triệu cô dâu - Ảnh 3.

Việt Nam là một trong những quốc gia hiếm hoi trên thế giới có sự chênh lệch giới tính khi sinh ngay từ đứa con đầu tiên. Ảnh minh họa Phạm Hưng

Bên cạnh đó, mức độ MCBGTKS cao hơn nhiều ở những cặp vợ chồng có trình độ học vấn cao, tình hình kinh tế khá giả. Năm 2019, tỷ số GTKS trong nhóm nghèo nhất là 108,2 trẻ trai/100 trẻ gái so với 112,9/100 ở nhóm giàu nhất. 

Trong Báo cáo tình trạng dân số thế giới năm 2020 do Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) tại Việt Nam công bố cho thấy, khoảng 40.800 bé gái tại Việt Nam mỗi năm sẽ không có cơ hội chào đời vì là con gái.

Điều này phản ánh thực trạng đáng báo động về tình trạng "trọng nam khinh nữ", nạo phá thai để lựa chọn giới tính thai nhi cũng như tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh đang ngày càng nghiêm trọng tại Việt Nam.

Chỉ ra nguyên nhân MCBGTKS rất nhiều năm qua không có chuyển biến dù chúng ta đã thực hiện nhiều giải pháp tuyên truyền, học thức của người dân đã cao lên, chuyên gia dân số, GS Nguyễn Đình Cử, nguyên Viện trưởng Dân số và Các vấn đề xã hội (Trường đại học Kinh tế quốc dân) khẳng định, định kiến "trọng nam khinh nữ" đã "kết tinh", ăn sâu vào nếp nghĩ, văn hóa, lối sống của người dân hàng nghìn năm nên không dễ thay đổi một sớm một chiều.

Có thể nhận thấy ở người có học thức, thậm chí GS, TS vẫn có tư tưởng muốn sinh con trai để "nối dõi tông đường". Tỷ lệ MCBGTKT ở các bà mẹ có học vấn cao lại cao hơn bà mẹ có học vấn thấp.

"Nguyên nhân nữa là việc lạm dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào việc lựa chọn giới tính của trẻ em không chỉ trong bào thai mà còn ngay từ khi thụ thai. Đây là xu hướng rất nguy hiểm, vượt qua pháp luật. Pháp lệnh Dân số 2003 đã nghiêm cấm điều này, tuy nhiên vẫn nhiều người lách luật, vi phạm.

Trong khi đó việc kiểm tra, giám sát không sâu sát, chưa có hình thức xử lý nghiêm các vi phạm này", GS Cử chia sẻ.

Ông Nguyễn Văn Tân - nguyên Phó Tổng cục trưởng Dân số - kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế) cũng đồng ý với quan điểm này.

Theo ông Tân, tình trạng MCBGTKS tăng cao ở bà mẹ có học thức là do chị em dù có học thì vẫn nặng tâm lý ưa thích con trai. Đồng thời họ có học thức, có tiền nên đã sử dụng các biện pháp lựa chọn giới tính thai nhi hiện đại: Siêu âm, kích trứng, chọn ngày thụ thai, lọc tinh trùng...

Ông Hoàng cho biết thêm, việc trọng nam khinh nữ còn do hệ thống an sinh xã hội cho người cao tuổi của nước ta chưa phát triển. Ở các khu vực nông thôn, nhiều người già không có lương hưu, hay trợ cấp xã hội, trong khi họ cần sự chăm sóc về y tế.

Tất cả phụ thuộc vào khả năng phụng dưỡng của con cái mà theo quan niệm của gia đình truyền thống, trách nhiệm đó chủ yếu thuộc về con trai. Nhiều người vì thế sẽ cảm thấy lo lắng cho tương lai và bất an khi về già nếu không có con trai.

Ở nhiều vùng nông thôn, các công việc nặng nhọc đều đòi hỏi sức lao động chân tay của nam giới. Vì vậy, con trai vừa là trụ cột về tinh thần, vừa là trụ cột về kinh tế cho cả gia đình.

Bên cạnh đó, những chuẩn mực xã hội mới như gia đình quy mô nhỏ, mỗi cặp vợ chồng chỉ sinh 1-2 con cũng là động lực khiến các cặp vợ chồng tìm kiếm và sử dụng các dịch vụ lựa chọn giới tính thai nhi.

Dân số Việt Nam 100 triệu (Kỳ II): Nguy cơ "thừa nam thiếu nữ", cần "nhập khẩu" hàng triệu cô dâu - Ảnh 5.

15-20 năm nữa, nguy cơ hàng triệu đàn ông thiếu phụ nữ để "kết đôi". Ảnh minh họa Gia Khiêm

Thừa nam, thiếu nữ, phụ nữ càng dễ bị bạo lực

Trái với suy nghĩ "thừa nam thiếu nữ" thì phụ nữ càng "có giá", việc MCBGTKS dẫn đến hệ lụy phụ nữ càng đứng trước nguy cơ bị bạo lực gia đình, tảo hôn, ép hôn, buôn bán phụ nữ, mại dâm…

Theo ông Hoàng, một trong những hệ lụy trước mắt của MCBGTKS là "sức ép hôn nhân" khi thiếu hụt nữ giới vào 10-20 năm nữa. 

"Đừng nghĩ rằng thiếu phụ nữ thì chị em sẽ có giá. Việc khan hiếm cô dâu sẽ khiến phụ nữ dễ bị chèn ép, giành giật, biến thành "món hàng" có giá như: ép phụ nữ kết hôn sớm.

Khi đó, tỷ lệ ly hôn và tái hôn cao, nguy cơ bị giành giật bạn đời, gia tăng tình trạng buôn bán phụ nữ, mại dâm, xâm hại tình dục, bạo lực gia đình...".

Ông Nguyễn Văn Tân

"Dự báo, nếu tỷ số giới tính khi sinh hiện tại không thay đổi thì đến năm 2034 Việt Nam sẽ dư thừa 1,5 triệu nam giới trong độ tuổi 15-49 và con số này vào năm 2059 sẽ tăng lên thành 2,5 triệu. Điều này khiến cho nhiều nam giới khó có khả năng lấy vợ; đặc biệt là ở nhóm nam giới có nền tảng kinh tế - xã hội thấp", ông Hoàng chia sẻ.

Theo ông Hoàng, tình trạng này sẽ dẫn tới cấu trúc gia đình bị phá vỡ; người già neo đơn, không nơi nương tựa sẽ gia tăng… Nguy cơ thiếu nhân lực trong một số ngành, nghề vốn thích hợp với phụ nữ như giáo viên, y tá, may mặc…

Ông Hoàng chia sẻ, để giải quyết tình trạng MCBGTKS, cần can thiệp, giải quyết nguyên nhân căn bản, gốc rễ của vấn đề là "định kiến giới, tâm lý ưa thích con trai hơn con gái" đã "ăn sâu" vào tiềm thức của mỗi cá nhân và trở thành quan niệm truyền thống của người Việt Nam.

Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh truyền thông theo các nhóm đối tượng; đặc biệt cần quan tâm đến việc nâng cao hiệu lực thực thi những quy định của pháp luật về kiểm soát MCBGTKS đã được quy định trong các luật, pháp lệnh, quy định về cấm lựa chọn giới tính khi sinh; tranh thủ sự hỗ trợ của tổ chức quốc tế để vận động nhân dân thực hiện tốt chính sách dân số...

"Tình trạng MCBGTKS chỉ được giải quyết triệt để khi Việt Nam triển khai đồng bộ các giải pháp lâu dài và bền bỉ với sự quyết tâm và vào cuộc của cả hệ thống chính trị", ông Hoàng nhấn mạnh. 

Mời các bạn xem clip GS Nguyễn Đình Cử chia sẻ về thách thức và cơ hội khi dân số Việt Nam tròn 100 triệu người. 

GS Nguyễn Đình Cử chia sẻ về thách thức và cơ hội khi dân số Việt Nam tròn 100 triệu người. Clip Gia Khiêm

Kỳ III: Xu hướng "lười đẻ" lan rộng 

Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.
Tin cùng chuyên mục
Xem theo ngày Xem