Loài Phi Cầu Sài có hình dáng giống con trai nhưng vỏ mỏng hơn nhiều. Ruột phi trắng nõn nà, có những tua dài trông rất thích mắt. Để làm ra một món Phi Cầu Sài đòi hỏi rất nhiều công sức ở người dân.
Trước tiên, muốn bắt phi về làm, bạn phải lặn hẳn xuống dưới đáy sông, nhưng quan trọng phải có kinh nghiệm bắt phi lâu năm mới không làm vỡ vỏ Phi, vì vỏ của chúng rất mỏng.
Phi là một loại hải sản vừa sống ở nước mặn, vừa sống ở nước lợ. Phi có ở nhiều nơi vùng ven biển Thanh Hóa như Hải Lộc (Hậu Lộc), Lạch Ghép (Quảng Xương), Lạch Hới (Sầm Sơn).
Người Thanh Hóa ngày nay vẫn còn truyền nhau câu chuyện về một món ăn đã từng nức tiếng gần xa, được cung kính dâng vua vào thời Lê Trung Hưng thế kỷ thứ 16, trở thành nét phong vị riêng của xứ Thanh, gần gũi, dung dị nhưng đậm đà. Ấy là món Phi Cầu Sài, vẫn được ưu ái gọi là phi tiến vua…Giữa trưa hè như đổ lửa mà nghe tiếng rao ấy thì cảm thấy dịu hẳn lại. Tiếng rao của các bà các chị bán rong phi ngân dài qua các ngả đường của thành phố Thanh Hoá, văng vẳng từ những ngày xa xưa cho tới tận hôm nay…
Con Phi, là một loại hải sản vừa sống ở nước mặn, vừa sống ở nước lợ. Phi có ở nhiều nơi vùng ven biển Thanh Hóa như Hải Lộc (Hậu Lộc), Lạch Ghép (Quảng Xương), Lạch Hới (Sầm Sơn). Những vùng này là nước mặn, nên Phi thường nhỏ con, chỉ dài khoảng 10 cm. Khi ăn, mùi vị chẳng khác gì con Trai biển.Gọi là Phi Cầu Sài là vì Phi ấy phải ở tại Cầu Sài mới đậm đà. Nó chỉ ngon ở ngay chính vùng đất ấy. Cũng như nhãn lồng Hưng Yên đem trồng nơi khác, đâu còn ngon nữa.Phi cầu Sài trông giống con trai biển, nhưng vỏ mỏng hơn. Con lớn nhất dài cả gang tay. Ruột phi dầy trắng ngần, có hai tua dài.
Đây là món đặc sản quý hiếm, vì ngoài vùng cầu Sài ra, không nơi nào trong cả nước, có loài phi như thế. Vùng đất cầu Sài gần với Chợ Phủ (xã Văn Lộc, huyện Hậu Lộc) xưa kia là trung tâm văn hóa lớn của vùng Hậu Lộc, Hoằng Hóa. Chợ Phủ xưa có bà Nguyễn Thị Minh Thụy là vợ vua Lê Trung Tông. Trong lần về thăm quê, khi đi qua cầu Sài thấy cũ nát, nguy hiểm bà đã cho tiền giúp dân tu sửa lại cây cầu. Chợ Phủ cũng được bà trùng tu nâng cấp trở thành một trong những chợ lớn của xứ Thanh thời bấy giờ.
Đoạn sông Trà qua cầu Sài có nước lớn nên loài phi sống rất nhiều. Phi ở đây có vỏ mỏng, ruột trắng ăn rất ngon nấu được nhiều món. Nhớ công ơn của Hoàng hậu Nguyễn Thị Minh Thụy, sau khi bà hồi cung người dân đã đi bắt và chọn những con trai ngon nhất dâng tiến vua làm sản vật quê hương.
Phi sống sâu dưới cát cả nửa mét, hai chiếc tua dài như hai sợi râu thò lên mặt đất ăn sinh vật phù du. Tua của chúng cũng chính là hai chiếc “ăng ten” cực kỳ nhạy, có bất cứ động tĩnh gì nó sẽ chui sâu dưới cát. Chính vì vậy, bắt phi là một công việc khó nhọc và vất vả.
Bắt phi là một công việc khó nhọc và vất vả. Hầu hết những người phụ nữ độ tuổi trung niên ở Hải Lộc, Hậu Lộc – Thanh Hóa không ai là không từng gắn bó với nghề đào phi từ thuở nhỏ. Có người từng nói, săn phi là nghề khó nhất, vất vả nhất trong các nghề bắt hải sản ven biển.
Bởi Phi sống sâu dưới cát cả nửa mét, hai chiếc tua dài như hai sợi râu thò lên mặt đất ăn sinh vật phù du. Tua cũng chính là hai chiếc "ăng ten" cực kỳ nhạy, có bất cứ động tĩnh gì nó sẽ chui sâu dưới cát.Đào phi phải dựa vào con nước, nước ròng kiệt (nước cạn), trời yên biển lặng thì nó mới chịu đưa vòi lên kiếm ăn. Người đi đào tìm chỗ ụ cát bằng nắm tay, màu hơi xanh, có những lỗ nhỏ bằng chân hương là ra sức đào thật nhanh để móc phi lên. Những ngày biển động hoặc trở trời thì không thể xác định phi đang ở chỗ nào dưới bãi cát rộng mênh mông.
Những người đi đào phi lúc nào cũng lấm lem từ đầu tóc đến gót chân, mặt luôn dính bùn cát vì phải áp sát xuống bãi bồi. Hai đầu gối họ chai lại, kết bửng sần sùi vì phải quỳ nhiều. Quần áo luôn bạc thếch vị mặn của nước biển và mùi tanh của bùn. Một vài người còn xén bớt một bên ống tay áo cho khỏi vướng.Những con phi nằm sâu dưới cát tưởng an phận nhưng lúc nào cũng thè chiếc lưỡi màu trắng ra. Người nào móc không khéo, để ngón tay chạm vào chiếc lưỡi sắc như dao cạo thì chỉ có đứt tay. Thế nhưng dù ngón tay có bị cứa nát vì lưỡi phi, họ cũng không bao giờ dùng găng tay vì phải để bàn tay trần còn cảm nhận được vị trí nằm của nó.
Đào được hố rồi, chạm vào được phi rồi nhưng đôi khi mắc cát, người đào không kéo chúng lên được, đành phải rút tay lên rồi lại nhanh chóng thò xuống móc một lần nữa. Nếu không nhanh, loài hải sản tinh ranh này sẽ lẩn ngay xuống bùn. Bởi vậy những người đi đào phi thường kiêng không nói chuyện, cũng không cho người ngoài nhìn ngó vào chiếc làn đựng phi của họ. Bởi họ quan niệm khi nghe tiếng người, phi sẽ nhanh chóng lặn sâu, không thể tìm thấy.
Ngâm phi trong nước muối nhạt, để phi nhả hết cát. Phi làm sống mới giữ được hương vị đặc trưng. Dùng mũi dao nhọn tách con phi ra khỏi vỏ, hứng lấy nước từ ruột phi chảy ra, để một lát cho cát lắng xuống, rồi chắt lấy nước trong cho vào nồi; thêm một lượng nước vừa đủ để nấu canh.
Chuẩn bị sẵn hành tươi thái khúc, vài cái lá chanh rửa sạch thái chỉ. Sau đó, khi nước sôi lên, nêm một lượng muối vừa đủ, thả ruột phi vào và khuấy đều. Đến khi sôi bùng lên phải bắc ra ngay, cho hành và lá chanh vào. Ta có một bát canh phi với mùi vị đặc trưng.
Món phi rán cũng làm sống, ướp gia vị rồi tẩm bột. Mỡ sôi già thả vào, lăn qua lăn lại, bột vừa chín phải gắp ra ngay. Phi rán ăn với các loại rau thơm chấm nước mắm gừng, tiêu, tỏi, ớt.
Ăn phi dù rán hay nấu canh, phải ăn tái mới hưởng thụ được hương vị tự nhiên vốn có của con phi. Khi nhai, ta cảm được cái giòn sần sật, vị ngọt thấm dần từ đầu môi đến cổ họng, đi đến đâu biết đến đó. Phi nấu chín quá sẽ teo tóp và dai, mất cả hương vị. Ai đã được ăn phi Cầu Sài, dù chỉ một lần thôi, suốt đời không thể quên được hương vị của nó.
Cháo phi cũng là một món ăn bổ dưỡng và lành, nhất là đối với người sau khi vừa ốm dậy. Người già và trẻ em ăn phi rất tốt, công hiệu đối với người mắc bệnh ra mồ hôi trộm.
Dù nay phi tiến vua không còn nhiều, nhưng hương vị cúa món phi cầu Sài một thuở vẫn xứng danh là tinh hoa ẩm thực của đất và người xứ Thanh.