Với bệnh dại ở động vật, thời kỳ ủ bệnh có thể thay đổi từ 7 ngày đến nhiều tháng. Đa số bệnh phát ra trong vòng 21-30 ngày sau khi con vật bị nhiễm virus. Riêng ở chó, thời gian này trung bình là 10 ngày.
Triệu chứng lâm sàng được chia làm 2 thể là thể dại điên cuồng và thể dại câm (còn gọi là bại liệt). Thực tế, có những con chó khi mắc bệnh biểu hiện cả 2 dạng kể trên một cách xen kẽ nhau, thời gian đầu có biểu hiện điên cuồng, bị kích động rồi sau đó chuyển sang dạng bị ức chế và bại liệt.
Thể dại điên cuồng chỉ chiếm khoảng ¼ các trường hợp chó dại, số còn lại là thể câm. Thể dại câm là dạng bệnh không có các biểu hiện lên cơn dại điên cuồng như thường thấy; chó chỉ có biểu hiện buồn rầu. Con vật có thể bị bại ở một phần cơ thể, nửa người hoặc 2 chân sau nhưng thường là liệt cơ hàm, mồm luôn hé mở, hàm trễ xuống, lưỡi thè ra; nước dãi chảy lòng thòng, con vật không cắn, sủa được, chỉ gầm gừ trong họng. Quá trình này tiến triển từ 2-3 ngày.
Thể dại câm là thể tiến triển nhanh hơn thể dại điên cuồng, thông thường chỉ từ 2-3 ngày vì hành tủy của con vật bệnh bị virus tác động làm rối loạn hệ tuần hoàn và hô hấp sớm hơn. Riêng ở mèo, ít bị mắc bệnh dại hơn chó vì mèo quen ở một mình. Bệnh dại ở mèo tiến triển cũng như ở chó nhưng mèo hay núp mình vào chỗ vắng hoặc kêu nhiều, bồn chồn như khi động dục. Khi người chạm vào thì nó cắn mạnh và hung hăng, tạo ra vết thương sâu.
Về phần bệnh tích, ở chó dại ít có biểu hiện điển hình, chỉ thấy dạ dày trống rỗng hoặc có vật lạ; có bệnh tích thể ở sừng Amon của não với các tiểu thể Negri đặc trưng cho bệnh dại, có thể được phát hiện qua kính hiển vi huỳnh quang.