Giá cà phê hai sàn tiếp tục tăng mạnh, cà phê nội sắp chạm mốc 49.000 đồng/kg

27/03/2023 15:05 GMT+7
Giá cà phê trên thị trường thế giới tiếp tục tăng. Giá cà phê hôm nay (27/3) tại thị trường trong nước tăng 200 đồng/kg. Trong đó, 48.600 đồng/kg là mức giao dịch cao nhất được ghi nhận tại hai tỉnh Đắk Lắk và Gia Lai.

Giá cà phê hôm nay 27/3: Giá cà phê trong nước nhích thêm 200 đồng/kg

Theo ghi nhận, giá cà phê trên thị trường thế giới tiếp tục tăng mạnh. Cụ thể, giá cà phê trực tuyến Robusta tại London giao tháng 5/2023 được ghi nhận tại mức 2.189 USD/tấn sau khi tăng 3,06% (tương đương 65 USD).

Giá cà phê Arabica giao tháng 5/2023 tại New York đạt mức 179,25 US cent/pound sau khi tăng 2,84% (tương đương 4,95 US cent).

Giá cà phê hai sàn tiếp tục tăng mạnh, cà phê nội sắp chạm mốc 49.000 đồng/kg - Ảnh 1.

Giá cà phê trực tuyến sàn London, New York, BMF Cập nhật: 27/03/2023 lúc 14:24:02 (delay 10 phút)

Giá cà phê hai sàn tiếp tục tăng mạnh, cà phê nội sắp chạm mốc 49.000 đồng/kg - Ảnh 2.

Giá cà phê trực tuyến sàn London, New York, BMF Cập nhật: 27/03/2023 lúc 14:24:02 (delay 10 phút)

Trước đó, tin đồn Fed sẽ mạnh tay cắt giảm lãi suất vào cuối năm 2023 đã khiến hầu hết các thị trường hàng hóa đảo chiều “tăng chóng mặt” ở phiên cuối tuần qua.

Tính chung cả tuần qua, thị trường London có 4 phiên tăng và 1 phiên giảm. Giá cà phê Robusta kỳ hạn giao ngay tháng 5 tăng tất cả 125 USD, tức tăng 6,06 %, lên 2.189 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 7 tăng tất cả 111 USD, tức tăng 5,40 %, lên 2.165 USD/tấn, các mức tăng rất mạnh. Khối lượng giao dịch ở mức trung bình.

Tương tự, thị trường New York có 3 phiên tăng và 2 phiên giảm. Giá cà phê Arabica kỳ hạn giao ngay tháng 5 tăng tất cả 2,65 cent, tức tăng 1,50 %, lên 179,25 cent/lb, và kỳ hạn giao tháng 7 tăng tất cả 2,85 cent, tức tăng 1,62 %, lên 178,30 cent/lb, các mức tăng đáng kể. Khối lượng giao dịch trên mức trung bình.

Giá cà phê nhân xô tại thị trường Tây Nguyên hôm nay nhích thêm 200 đồng sau khi bật tăng mạnh 1.000 đồng/kg trong phiên cuối tuần qua, lên dao động trong khung 48.200 - 48.600 đồng/kg. Trong đó, tỉnh Lâm Đồng có mức giá thấp nhất là 48.200 đồng/kg. Kế đến là Đắk Nông với 48.500 đồng/kg. Giá cà phê tại hai tỉnh Đắk Lắk và Gia Lai ở cùng mức 48.600 đồng/kg. Đây là mức giao dịch cao nhất trong các địa phương được ghi nhận.

Giá cà phê kỳ hạn biến động rất mạnh trong tuần vừa qua khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) quyết định nâng mức lãi suất USD lên thêm 0,25% và sự tác động của cuộc khủng hoảng ngân hàng buộc Chính phủ một số quốc gia phải ra tay giải cứu. 

Ngoài ra do USDX trở lại đà tăng đã đẩy tiền tệ của các nước sản xuất cà phê vào tình trạng mất giá khiến nông dân trồng cà phê thể hiện sự kháng giá làm các nhà xuất khẩu không mua được hàng để giao cho các hợp đồng giao sau đã ký, tạo ra mối lo thiếu hụt nguồn cung ngắn hạn cho các thị trường tiêu dùng. Đáng chú ý là tin đồn Fed sẽ mạnh tay cắt giảm lãi suất vào cuối năm 2023 đã khiến hầu hết hàng hóa đảo chiều “tăng chóng mặt” ở phiên cuối tuần qua.

Tính đến thứ sáu ngày 24/03, tồn kho cà phê Robusta do ICE – London chứng nhận và theo dõi cấp phát đã tăng 340 tấn, tức tăng 0,45 % so với một tuần trước đó, lên đăng ký ở mức 76.300 tấn (tương đương 1.271.667 bao, bao 60 kg), vẫn còn đứng ở mức thấp 3,5 tháng, đã góp phần hỗ trợ xu hướng giá tăng.

Tuy có sự biến động mạnh về giá trên thị trường, nhưng thương mại trên cả hai sàn cà phê kỳ hạn diễn ra với khối lượng tương đối thấp, cho thấy phần lớn nhà đầu tư vẫn còn đứng bên ngoài để chờ đợi thêm những tin tức hỗ trợ mới.

Indonesia bắt đầu bước vào tháng Lễ Ramadan theo truyền thống, cùng với Brazil vào giai đoạn giáp hạt khiến nguồn cung cho các thị trường tiêu dùng bị chậm lại.

Giá cà phê hai sàn tiếp tục tăng mạnh, cà phê nội sắp chạm mốc 49.000 đồng/kg - Ảnh 3.

Thị trường cà phê tháng 2 và đầu tháng 3 sôi động hơn bởi những lo ngại về thiếu hụt nguồn cung trong ngắn hạn. Theo đó, yếu tố thời tiết không thuận lợi tại Brazil và báo cáo tồn kho giảm đã tác động tích cực lên thị trường cà phê thế giới. Giá cà phê Arabica trên sàn New York đã phục hồi trong thời gian gần đây, nhưng vẫn thấp hơn thị trường nội địa Brazil. Trong khi đó, lượng tồn kho xuống thấp sau hai vụ mùa yếu kém khiến người nông dân không muốn bán ra ở mức giá hiện tại. Trong bối cảnh này, các thương nhân quốc tế đang cố gắng tìm kiếm nguồn cung cà phê tại các nước sản xuất khác với mức giá gần với giá tương lai trên sàn New York. 

Theo Tổ chức Cà phê Thế giới (ICO), dự trữ cà phê Arabica được chứng nhận trên sàn New York giảm 5% so với tháng trước, xuống còn 0,86 triệu bao (loại 60 kg/bao). Tuy nhiên, dự trữ Robusta được chứng nhận tăng 13,8% lên 1,19 triệu bao. Theo khảo sát hồi đầu tháng 2, nguồn cung cà phê thế giới trong niên vụ 2022-2023 có thể thiếu hụt khoảng 4,15 triệu bao. 

Theo Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO), xuất khẩu cà phê toàn cầu 3 tháng đầu tiên của niên vụ cà phê hiện tại đã giảm 2,8% xuống 30,27 triệu bao so với 31,14 triệu bao cùng kỳ niên vụ 2021-2022. ICO giữ nguyên dự báo về sản lượng cà phê toàn cầu niên vụ 2022-2023 ở mức 167,2 triệu bao, giảm 2,1% so với 170,8 triệu bao của niên vụ trước. Trong khi tiêu thụ cà phê thế giới được dự báo sẽ tăng 3,3% lên 170,3 triệu bao trong niên vụ 2022-2023, so với 164,9 triệu bao của vụ 2020-2021. Như vậy, tiêu thụ dự kiến sẽ vượt sản xuất 3,1 triệu bao. 

Sản lượng niên vụ cà phê năm nay của Việt Nam cũng được dự báo giảm. Theo Hiệp hội Cà phê - Cacao Việt Nam (VICOFA), sản lượng niên vụ 2022 - 2023 dự kiến giảm khoảng 10 - 15% so với niên vụ 2021 - 2022 xuống khoảng 1,47 triệu tấn. Nguyên nhân chủ yếu đến từ diện tích trồng cà phê có xu hướng giảm do người dân chuyển sang các cây trồng khác có hiệu quả hơn như sầu riêng, bơ, hoặc trồng xen canh trong vườn. 

Với Colombia, sản lượng lượng cà phê trong tháng đầu năm 2023 đã không ghi nhận tăng trưởng sau 4 tháng sụt giảm liên tiếp. Điều này khiến tổng sản lượng cà phê trong 12 tháng tính đến tháng 1/2023 của nước này giảm 10% xuống 11 triệu bao. 

Còn tại Peru, tác động tiêu cực của thời tiết đối với sản xuất và xuất khẩu đã được đề cập trong các báo cáo gần đây. Mặt khác, tình hình chính trị bất ổn cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu cà phê của nước này. 

Thống kê của ICO cho thấy, xuất khẩu cà phê toàn cầu trong tháng 1 chỉ đạt 9,7 triệu bao, giảm 10,2% so với tháng trước và giảm 13,9% so với cùng kỳ năm 2022. Tính chung 4 tháng đầu niên vụ 2022-2023 (tháng 10/2022 đến tháng 1/2023) xuất khẩu cà phê toàn cầu đã giảm 6% so với cùng kỳ niên vụ trước, xuống còn 39,9 triệu bao. Về chủng loại, cà phê nhân xanh chiếm gần 90% xuất khẩu cà phê toàn cầu trong tháng 1 với khối lượng đạt 10,2 triệu bao, giảm 15% so với cùng kỳ năm trước. 

Lũy kế từ tháng 10/2022 đến tháng 1/2023, xuất khẩu cà phê nhân xanh đạt 36 triệu bao, giảm 5,4% so với cùng kỳ. Trong đó, xuất khẩu nhóm cà phê nhân xanh Arabica Brazil đảo chiều giảm 17% trong tháng 1 và giảm 0,1% sau 4 tháng đầu niên vụ 2022-2023, xuống 13,1 triệu bao. Các lô hàng Arabica khác tiếp tục đi xuống trong tháng thứ 4 liên tiếp, với mức giảm 18% trong tháng 1 xuống 1,6 triệu bao. Do đó, khối lượng xuất khẩu lũy kế của nhóm cà phê này sau 4 tháng đầu niên vụ cà phê 2022-2023 chỉ đạt 5,1 triệu bao, giảm 18%. 

Biến động mạnh nhất phải kể đến nhóm Arabica Colombia, xuất khẩu nhóm cà phê này đã giảm tới 20,9% trong tháng 1 và giảm 15,9% trong 4 tháng đầu niên vụ hiện tại, xuống 3,7 triệu bao. Trong khi đó, xuất khẩu cà phê Robusta giảm 10,1% trong tháng 1 và giảm 1,4% trong 4 tháng đầu niên vụ 2022-2023, đạt gần 14 triệu bao. 

Không nằm ngoài xu hướng chung, xuất khẩu cà phê hòa tan giảm 3% trong tháng 1 xuống 0,9 triệu bao. Tổng cộng 4 tháng đầu niên vụ 2022-2023 đã có 3,7 triệu bao cà phê hòa tan được xuất khẩu trên thế giới, giảm 11,2% so với niên vụ cà phê trước và chiếm tỷ trọng khoảng 10,1% trong tổng xuất khẩu cà phê toàn cầu. 

Xuất khẩu cà phê rang xay cũng giảm 9% trong tháng 1, xuống 61.683 bao. Lũy kế sau 4 tháng đầu niên vụ 2022-2023, khối lượng cà phê rang xay được xuất khẩu trên thế giới đã giảm xuống còn 278.977 bao so với 289.578 bao cùng kỳ năm trước. 

Giá cà phê hai sàn tiếp tục tăng mạnh, cà phê nội sắp chạm mốc 49.000 đồng/kg - Ảnh 4.

Sản lượng niên vụ cà phê năm nay của Việt Nam cũng được dự báo giảm.

Lượng bán ra của các nước xuất khẩu lớn chậm lại. Xét theo khu vực, xuất khẩu cà phê của khu vực Nam Mỹ đã giảm 19,9% trong tháng đầu năm 2023 xuống còn 3,9 triệu bao, do tổng xuất khẩu của ba quốc gia sản xuất chính trong khu vực là Brazil, Colombia và Peru giảm 21%. Theo đó, xuất khẩu cà phê của Brazil và Colombia giảm lần lượt là 16% và 18,8%, tương ứng đạt 2,9 triệu bao và 0,8 triệu bao. Trong khi xuất khẩu của Peru giảm tới 63,9% trong tháng 1, sau khi đã giảm 41,5% vào tháng 11 và tháng 12 năm ngoái. 

Với Colombia, sự sụt giảm vẫn chủ yếu liên quan đến điều kiện sản xuất gặp nhiều bất lợi do ảnh hưởng của hiện tượng La Niña. Sản lượng cà phê của Colombia trong tháng đầu năm 2023 đã không ghi nhận tăng trưởng sau 4 tháng sụt giảm liên tiếp. Điều này khiến tổng sản lượng cà phê trong 12 tháng tính đến tháng 1/2023 của nước này giảm 10% xuống 11 triệu bao. 

Còn tại Peru, tác động tiêu cực của thời tiết đối với sản xuất và xuất khẩu đã được đề cập trong các báo cáo gần đây. Mặt khác, tình hình chính trị bất ổn cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu cà phê của nước này. Sự sụt giảm còn được lý giải là do mức nền cao của năm ngoái khi khối lượng xuất khẩu của Peru tăng bất thường, với kỷ lục 435.961 bao cà phê đã được vận chuyển trong tháng 1/2022. Con số này vượt xa khối lượng xuất khẩu trung bình 195.565 bao trong sáu năm qua (2016–2021). 

Tiếp đến là khu vực châu Á và châu Đại Dương, xuất khẩu cà phê của khu vực này đã giảm 17,2% so với cùng kỳ năm ngoái xuống 3,4 triệu bao trong tháng 1 và giảm 3,3% xuống 14,4 triệu bao trong 4 tháng đầu niên vụ 2022-2023. Ba quốc gia sản xuất hàng đầu của khu vực là Việt Nam, Ấn Độ và Indonesia có khối lượng xuất khẩu giảm lần lượt là 12,7%, 39,7% và 18,8%, đạt tương ứng 2,4 triệu bao, 0,3 triệu bao và 0,6 triệu bao. Theo ICO, số ngày làm việc ít hơn do trùng với kỳ nghỉ Tết Dương lịch và Tết Nguyên đán là nguyên nhân chính dẫn đến sự sụt giảm xuất khẩu của Indonesia và Việt Nam. 

Ngược lại, xuất khẩu cà phê từ khu vực châu Phi tăng 19,5% trong tháng 1 và tăng 1,4% sau 4 tháng đầu niên vụ hiện tại, đạt 4,2 triệu bao. Đáng chú ý, xuất khẩu cà phê từ Uganda, nhà sản xuất lớn nhất khu vực đã tăng 22,9% trong tháng 1 lên 0,5 triệu bao. Qua đó chấm dứt 12 tháng suy giảm liên tiếp của nước này. Năm ngoái, xuất khẩu cà phê của Uganda giảm xuống 5,6 triệu bao so với 6,8 triệu bao của năm 2021. Tồn kho toàn cầu ở mức thấp, trong khi xuất khẩu giảm tại Indonesia, Việt Nam đã tạo cơ hội để Uganda gia tăng xuất khẩu trong tháng đầu năm 2023.

Còn tại khu vực Trung Mỹ và Mexico, xuất khẩu cà phê của khu vực này đã giảm 5% trong tháng 1 và giảm 11,4% sau 4 tháng của niên vụ hiện tại, đạt tổng cộng là 2,7 triệu bao. Sự sụt giảm này chủ yếu đến từ El Salvador (-58,3%), Guatemala (-40,9%) và Nicaragua (- 22,5%), trong khi xu hướng tăng được nhìn thấy ở Honduras (+2,8%) và Mexico (+61,4%). Với riêng Honduras, đây là mức tăng đầu tiên trong vòng một năm qua khi quốc gia này đang bước vào mùa thu hoạch cao điểm và nguồn cung khá dồi dào để đáp ứng các hợp đồng xuất khẩu. 

Tháng 2 và đầu tháng 3, giá cà phê Robusta và Arabica tiếp tục tăng mạnh do lo ngại thiếu hụt nguồn cung trong ngắn hạn. Theo Cục Xuất nhập khẩu, các chỉ số kinh tế Mỹ tăng trưởng khả quan đi kèm với việc nguồn cung của Brazil hạn chế là những yếu tố giúp các quỹ và nhà đầu cơ quay lại thị trường để gom hàng bất chấp lãi suất có thể tăng hơn nữa ở hầu hết Ngân hàng Trung ương các nước. Ngoài ra, việc đồng real tăng so với đồng USD trong thời điểm đầu năm cũng khiến người trồng cà phê tại Brazil hạn chế bán ra, càng đẩy giá cà phê tăng. 

Dự báo đà tăng giá trong thời gian tới sẽ chậm lại bởi những thông tin xấu ở thị trường tài chính, ảnh hưởng đến sức mua của các quỹ. Fed tăng lãi suất sẽ ảnh hưởng đến chi phí vốn của các doanh nghiệp. Ngoài ra, việc ngân hàng SVB sụp đổ cũng ảnh hưởng đến tâm lý người mua. Xét về nguồn cung, lượng cà phê tại Indonesia chuẩn bị sẽ được bổ sung vào thị trường do nước này vào vụ thu hoạch mới. Trong khi đó, lượng xuất khẩu của các nước đang có xu hướng chậm lại, do đó, đà tăng giá khó lòng duy trì. Tuy nhiên, về dài hạn, thị trường có những yếu tố tích cực hỗ trợ giá khi nguồn cung nhiều quốc gia bị suy giảm và có thể xảy ra tình trạng thiếu cung.


Nguyễn Phương
Cùng chuyên mục