12,2 triệu tỷ đồng tín dụng: Ngân hàng đang "rót" nhiều tiền vào đâu?

04/05/2023 13:39 GMT+7
Tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản tăng 2,19%, trong đó kinh doanh bất động sản tăng 6,45%, phục vụ mục đích tự sử dụng tăng 0,25%. Đáng chú ý, tín dụng để đầu tư, kinh doanh chứng khoán tăng cao nhất lên tới 13,39%.

Đó là số liệu thống kê tính đến cuối tháng 2/2023, theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) gửi tới Ủy ban Kinh tế Quốc hội, phục vụ cho kỳ họp Quốc hội vào tháng 5 này.

Tín dụng toàn nền kinh tế đạt trên 12,2 triệu tỷ đồng

Theo báo cáo, trên cơ sở mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2023 khoảng 6,5% và lạm phát khoảng 4,5% được Quốc hội, Chính phủ đặt ra, NHNN định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2023 khoảng 14-15%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. NHNN đã có công văn thông báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng tổ chức tín dụng (TCTD) và tiếp tục chỉ đạo TCTD hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng nền kinh tế theo chủ trương của Chính phủ.

Đồng thời, thực hiện các giải pháp tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong tiếp cận vốn tín dụng; đa dạng sản phẩm dịch vụ ngân hàng, đơn giản hóa thủ tục cho vay, niêm yết công khai, minh bạch các thủ tục, quy trình vay vốn; nâng cao hiệu quả thẩm định và đánh giá mức độ tín nhiệm khách hàng để tăng cường cho vay không có bảo đảm bằng tài sản,…

NHNN cũng chỉ đạo các TCTD đảm bảo hoạt động tín dụng an toàn, hiệu quả; tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.

12,2 triệu tỷ đồng tín dụng: Ngân hàng đang "rót" nhiều tiền vào đâu? - Ảnh 1.

Tín dụng toàn nền kinh tế đạt trên 12,2 triệu tỷ đồng tính đến hết quý I/2023.

Kết quả, trong quý I năm 2023, tín dụng toàn nền kinh tế đạt trên 12,2 triệu tỷ đồng, tăng 2,61% so với cuối năm 2022, tăng 10,49% so với cùng kỳ năm trước.

Trong đó, cơ cấu tín dụng tiếp tục tập trung vốn cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, góp phần đóng góp vào tăng trưởng GDP cả nước. Tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được kiểm soát .

Một số kết quả cụ thể tính đến cuối tháng 2/2023 (so với cuối năm 2022) cũng được đề cập trong báo cáo.

Về tín dụng ngành kinh tế. Số liệu từ NHNN cho thấy, tín dụng đối với ngành nông, lâm, thủy tăng 0,74%; Tín dụng đối với ngành công nghiệp và xây dựng tăng 1,79%; Tín dụng đối với ngành thương mại dịch vụ tăng 0,5%.

Tín dụng đối với các lĩnh vực ưu tiên: Dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn giảm 0,09%; Dư nợ tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng khoảng 0,73%. Trong khi đó, dư nợ tín dụng xuất khẩu (không bao gồm đầu tư trái phiếu doanh nghiệp) tăng 3,15%; Tín dụng đối với lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ tăng 6,08%; Tín dụng đối với lĩnh vực doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng 3,31%.

Tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Theo thống kê, tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản tăng 2,19%, trong đó kinh doanh bất động sản tăng 6,45%, phục vụ mục đích tự sử dụng tăng 0,25%. Trong khi đó, tín dụng để đầu tư, kinh doanh chứng khoán tăng 13,39%.

Như vậy, tín dụng đầu tư, kinh doanh chứng khoán và kinh doanh bất động sản ghi nhận mức tăng cao nhất trong những tháng đầu năm nay.

Cũng theo NHNN, huy động vốn của các TCTD tính đến hết quý I/2023 khá tốt (đạt 12,34 triệu tỷ đồng, bằng 101% tín dụng), thanh khoản hệ thống dư thừa và chưa bị giới hạn chạm trần tăng trưởng tín dụng; theo đó, các TCTD có điều kiện thuận lợi để cung ứng vốn cho vay đối với nền kinh tế.

Ba nguyên nhân khiến tăng trưởng tín dụng chưa cao

Tuy nhiên, NHNN cũng đánh giá tăng trưởng tín dụng trong quý I/2023 chưa cao, do một số nguyên nhân chính.

Thứ nhất, cầu tín dụng của nền kinh tế giảm. Kinh tế thế giới còn nhiều bất ổn, lạm phát cao, cầu đầu tư, sản xuất kinh doanh giảm dẫn tới cầu tín dụng giảm tương ứng.

Hai là, một số nhóm khách hàng có nhu cầu nhưng chưa đáp ứng điều kiện vay vốn/hoặc còn vướng mắc về thủ tục pháp lý, như nhóm SMEs (quy mô vốn nhỏ, năng lực tài chính, quản trị điều hành hạn chế, thông tin còn thiếu minh bạch…), nhóm bất động sản (thị trường bất động sản tiếp tục khó khăn, nhiều doanh nghiệp có tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao, tình hình tài chính kém lành mạnh)...

Ba là, thời gian dài nền kinh tế gặp khó khăn, mức độ rủi ro của khách hàng bị đánh giá cao hơn, nhất là khi hoạt động của doanh nghiệp khó chứng minh hiệu quả trong bối cảnh hiện nay dẫn tới việc các TCTD rất khó khăn trong quyết định cho vay do không thể hạ chuẩn tín dụng để đảm bảo an toàn hệ thống…

Trong báo cáo gửi Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, NHNN cũng cho biết trong những tháng đầu năm đã làm việc trực tiếp với một số tổ chức tín dụng. Mục đích là để nắm rõ thực trạng chất lượng tín dụng, kế hoạch và lộ trình xử lý nợ xấu, cấp tín dụng đối với một số lĩnh vực rủi ro như bất động sản, chứng khoán, dự án BOT, BT giao thông, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp...

Các tổ chức tín dụng kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng và yêu cầu có lộ trình giảm dần tín dụng trung, dài hạn, tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản nhằm ngăn chặn nợ xấu phát sinh.



Huyền Anh
Cùng chuyên mục